Câu chuyện về anh hùng Lê Chân - Một danh nhân của đất nước
Ngày nay, thành phố Hải Phòng thu hút du khách với bức tượng nữ tướng Lê Chân đặt tại dải vườn hoa trung tâm. Tượng cao 6m, chế tác bằng đồng, thể hiện vẻ uy nghiêm và hùng vĩ. Lê Chân đứng bên thanh bảo kiếm, ánh mắt rực rỡ hướng về biển Đông, thể hiện sức mạnh và sự dũng cảm.
Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nổi tiếng và nhân đức ở địa phương. Bà sinh ra tại làng An Biên (còn gọi là làng Vẻn), thuộc phủ Kinh Môn, nay là huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Khi mới 16 tuổi, Lê Chân đã nổi bật với tài năng, sắc đẹp và khả năng võ thuật vượt trội, cùng với tinh thần kiên cường phi thường. Trong thời kỳ Thái thú Giao Chỉ cai trị tàn bạo, sau khi từ chối làm tì thiếp cho kẻ thù, Lê Chân đã phải lẩn trốn đến vùng ven biển An Dương, nơi bà nuôi dưỡng lòng thù hận đối với kẻ thù và quyết tâm không chịu khuất phục trước sự xâm lược của giặc Hán.
Khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nổ ra, Lê Chân là một trong những chiến binh nổi bật, chỉ huy đội quân nghĩa từ làng An Biên tham gia vào trận chiến tại Luy Lâu, vây đánh quân Đông Hán. Cuộc kháng chiến đầy sức chiến đấu với lửa bốc cháy và tiếng hò reo của quân lính đã khiến quân địch hoảng loạn và phải tháo chạy. Chính quyền đô hộ bị đánh bại, Thái thú Tô Định phải trốn về phương Bắc, đánh dấu một chiến thắng quan trọng của nhân dân.
Sau khi đất nước giành lại độc lập, Lê Chân trở thành một lãnh đạo quan trọng trong quân đội giải phóng. Bà được phong chức 'Chưởng quản binh quyền nội bộ', đóng quân tại Giao Chỉ. Trong trận chiến chống quân Hán vào tháng 4 năm 42, bà đã chỉ huy quân đội trong nhiều trận đánh lớn tại Lãng Bạc, Cẩm Khê, Hát Môn. Đến tháng 5 năm 43, Lê Chân đã hy sinh anh dũng tại Lạt Sơn, Kim Bảng, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc.
Để tri ân công lao của nữ anh hùng Lê Chân, người dân An Biên đã xây dựng đền thờ gọi là đền Nghè, được xem là một trong những di tích lịch sử quan trọng của thành phố Cửa Biển.
Kể về những anh hùng và danh nhân vĩ đại của nước ta - Nguyễn Thị Chiên
Việt Nam chúng ta từ lâu đã sản sinh nhiều anh hùng, trong đó có không ít nữ anh hùng xuất sắc. Nguyễn Thị Chiên là một trong những người để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng tôi.
Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, bà là người duy nhất giữ vai trò bí thư và chỉ huy một trung đội du kích tại xã. Năm 1950, với mưu lược sắc bén, bà đã tiêu diệt một tiểu đội địch trên đường 39 bằng cách sử dụng mìn. Dù bị giặc bắt và tra tấn dã man, bà vẫn kiên cường giữ vững lập trường và không khai báo. Sau khi được thả, bà tiếp tục lãnh đạo các hoạt động du kích, khai hoang, sản xuất lương thực và huy động vật nuôi, cũng như quản lý quân lực và mua sắm vũ khí.
Năm 1951, với mưu lược thông minh, bà đã bắt một tiểu đội địch tại chợ và thu được bảy khẩu súng. Sau đó, bà tiếp tục bắt giữ sĩ quan Pháp chỉ huy trong một trận đánh ở xã. Đến năm 1952, trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần đầu tiên, bà được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và Quân công hạng Ba, cùng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang từ Hồ Chủ Tịch.
Nguyễn Thị Chiên là biểu tượng sáng ngời của nữ anh hùng Việt Nam, luôn được tôi và nhiều người khác ngưỡng mộ. Tôi sẽ học tập và rèn luyện để có thể cống hiến cho tổ quốc như bà đã từng làm.
Kể về những anh hùng và danh nhân vĩ đại của nước ta - Nguyễn Viết Xuân
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ để giành độc lập, Bác Hồ đã dạy rằng 'Ra ngõ gặp anh hùng'. Câu chuyện về Nguyễn Viết Xuân dưới đây là về một anh hùng tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam.
Nguyễn Viết Xuân xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú. Từ nhỏ, anh đã phải vất vả kiếm sống, với cuộc sống khó khăn kéo dài suốt mười năm.
Khi 18 tuổi, trong bối cảnh chiến sự, anh gia nhập lực lượng vũ trang năm 1952, trở thành chiến sĩ trong quân đội nhân dân và được phân công vào một trung đoàn pháo cao xạ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị của anh đã nhiều lần bắn rơi máy bay quân Pháp. Khi bắn hạ chiếc B.24 đầu tiên trên chiến trường, niềm vui tràn ngập và anh nói với chỉ huy Nguyễn Khắc Vĩ: 'Dù việc bắn hạ chiếc B.24 rất khó, nhưng cuối cùng nó cũng phải chịu số phận của nó.' Chỉ huy đáp lại: 'Dù dũng cảm thế nào, thì máy bay của địch cũng phải rơi thôi!'
Trong một trận đánh, khi máy bay địch ồ ạt tấn công và bom rơi như mưa, anh Xuân đứng trên hầm pháo chỉ huy và dũng cảm hô lên: 'Nhắm thẳng vào máy bay địch, bắn!' Tuy nhiên, anh đã hy sinh trong trận chiến.
Hình ảnh anh Xuân với tiếng hô dũng cảm ấy đã in sâu trong lòng mọi người. Anh là người luôn nỗ lực, và sau này được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam. Anh tiếp tục phục vụ cách mạng, trở thành chính trị viên, từ phó đại đội đến đại đội trưởng. Năm 1964, thiếu úy Nguyễn Viết Xuân dẫn đơn vị pháo cao xạ đến miền Tây Quảng Bình để bảo vệ biên giới Tổ quốc.
Vào ngày 18 tháng 11 năm 1964, khi máy bay địch liên tục xâm nhập không phận miền Bắc phía Tây Quảng Bình, anh cùng đơn vị dũng cảm không ngừng chống trả. Tiếng hô của anh vang vọng: 'Nhắm thẳng vào quân thù, bắn!' Hai chiếc máy bay phản lực F.100 đã bị hạ gục.
Khi địch tiếp tục tấn công lần thứ tư, anh Xuân gấp rút trở về sở chỉ huy để truyền lệnh. Ba chiếc F.100 lao vào, bắn pháo liên tục. Trong trận chiến, anh bị thương nhưng cố gắng giấu diếm và dặn dò: 'Đừng để ai biết tôi bị thương. Hãy giúp tôi truyền lệnh chiến đấu.'
Y tá đến để cấp cứu, nhưng anh từ chối điều trị và chỉ yêu cầu cắt chân để không cản trở chiến đấu. Anh thực hiện việc cắt chân mà không kêu ca, và dặn dò y tá: 'Hãy chăm sóc những người khác trước.'
Các đồng đội của anh tiếp tục chiến đấu không ngừng, đáp trả mạnh mẽ khi máy bay địch tấn công. Khi các cuộc tấn công kết thúc, anh được tìm thấy đã hy sinh.
Khẩu lệnh 'Nhắm thẳng quân thù mà bắn!' của Nguyễn Viết Xuân đã trở thành biểu tượng bất diệt. Lời hô này luôn khiến kẻ thù khi xâm phạm bầu trời miền Bắc phải khiếp sợ.
Kể về một anh hùng, một danh nhân của nước ta – Nguyễn Hiền, một tấm gương sáng ngời.
Ông cha ta thường nói 'Có chí thì nên'. Những ai kiên trì và vượt qua khó khăn sẽ đạt được thành công. Ông Trạng, nhân vật trong câu chuyện 'Ông Trạng thả diều', chính là minh chứng sống động cho điều này.
Vào thời vua Trần Thái Tông, trong một gia đình nghèo có một cậu bé tên là Nguyễn Hiền. Ngay từ khi còn nhỏ, cậu đã mê thả diều và biết cách làm thuyền diều để chơi.
Khi lên sáu tuổi, Nguyễn Hiền học cùng một ông thầy trong làng. Thầy rất ngạc nhiên trước trí thông minh và khả năng ghi nhớ của cậu bé. Đôi khi, Nguyễn Hiền có thể thuộc lòng hai mươi trang sách và vẫn dành thời gian để chơi diều.
Do hoàn cảnh gia đình quá nghèo, Nguyễn Hiền buộc phải bỏ học. Ban ngày, khi chăn trâu, dù mưa gió thế nào, cậu vẫn ngồi ngoài lớp học để nghe giảng. Buổi tối, Nguyễn Hiền chờ bạn đem vở mới, vẫn cố gắng học bằng nền cát, bút là ngón tay hay mảnh gạch vụn, và đèn là vỏ trứng với đom đóm bên trong. Dù cuộc sống bận rộn, cánh diều của Nguyễn Hiền vẫn bay cao, tiếng sáo vang vọng trong cánh đồng.
Mỗi khi kỳ thi đến, Nguyễn Hiền viết bài lên lá chuối khô và nhờ bạn mang đến thầy để chấm. Các bài viết của Nguyễn Hiền luôn nổi bật và xuất sắc hơn so với các bạn cùng lứa.
Vài năm sau, khi vua tổ chức kỳ thi, Nguyễn Hiền, lúc đó mới mười ba tuổi, đã tham gia và đạt danh hiệu Trạng Nguyên. Ông trở thành Trạng Nguyên trẻ tuổi nhất của nước Nam.
Nguyễn Hiền là một tấm gương sáng chói, nguồn cảm hứng lớn lao cho các thiếu niên nước ta. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, ông đã vượt lên và trở thành Trạng Nguyên. Tài năng của ông bay cao như những cánh diều ông từng thả lên trời.