Keo động vật hay keo động vật (Animal glue) là một loại keo hữu cơ có nguồn gốc từ protein được chiết xuất chủ yếu từ phương pháp nấu và cô đặc, loại vật chất này có nguồn gốc chủ yếu từ chất keo có trong da động vật hoặc từ việc chiết xuất collagen có trong xương động vật, chủ yếu là gia súc hoặc có nguồn gốc từ gelatin tái chế. Trong dân gian, xương (keo xương) của nhiều loài vật được nấu keo làm thuốc bổ như khỉ, sơn dương, hổ, báo, gấu, ngựa, tính chất và công dụng của chúng được coi gần như nhau và được coi là những thuốc bổ toàn thân (toàn tính), riêng keo khỉ hay dùng cho phụ nữ và keo hổ cốt được coi là có công dụng đặc biệt với chứng bệnh tê thấp, đau xương, nói chung, xương động vật dùng nấu thành keo làm thuốc bồi bổ sức khỏe và chữa trị rất hiệu quả nhiều bệnh tật.
Sử dụng
Ở phương Tây, keo động vật là một sản phẩm từ động vật được sử dụng làm chất kết dính, định hình và bao phủ, miếng đệm và cho các ứng dụng trong các ngành công nghiệp. Những chất keo protein này được hình thành thông qua quá trình thủy phân collagen từ da, xương, gân và các cấu trúc mô khác, tương tự như gelatin. Chính từ collagen có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: κόλλα kolla, có nghĩa là keo, các cấu trúc protein này tạo ra liên kết phân tử với vật được dán, thông thường ở phương Tây thì ngựa thường được sử dụng và các loài động vật khác như thỏ và cá cũng được sử dụng.
Trong Đông y, cao động vật là một loại cao gọi là cao toàn tính là loại cao được làm từ hầu hết các bộ phận của động vật (xương, thịt, da) và thông thường được sử dụng làm thuốc. Cao xương động vật nói chung được dùng để bồi bổ cơ thể và điều trị rất hiệu quả trong các trường hợp suy nhược cơ thể, kém ăn, mất ngủ, và yếu. Các y sĩ thừa nhận một số lợi ích của các sản phẩm từ cao xương động vật đối với sức khỏe con người, với các thành phần chứa nhiều canxi và protein. Tuy nhiên, hiệu quả thực sự của chúng vẫn còn được đánh giá cao hơn khi được lan truyền từ miệng này sang miệng khác.
Trong lịch sử, khi chế tác cung, các nghệ nhân cũng đã sử dụng các loại keo động vật làm nguyên liệu. Cung thường được dán bằng a giao (keo nấu từ xương) và dán vào sợi gân động vật dẻo dài. Keo được nấu từ gân kết hợp với da (a dao), cộng thêm một phần xương và da cá. Do keo xương có thể bị chảy khi tiếp xúc với mồ hôi, người ta cố gắng tránh tiếp xúc trực tiếp bằng lòng bàn tay, chỉ khi cần thì mới sử dụng ngón tay để chạm vào và có thể sử dụng một mảnh đúc từ đồng để bảo vệ. Keo xương dán cung phải để cho thấm đều vào thớ gỗ trong khoảng từ nửa tháng đến hai tháng.
Chế biến
Phương pháp chế biến cao từ xương động vật có nhiều điểm tương đồng, chỉ khác nhau ở công đoạn tẩm sao xương hoặc sừng và thay đổi tùy theo từng địa phương. Theo kinh nghiệm dân gian và Đông y, xương thú rừng như hổ, gấu, khỉ, báo, nai, sơn dương thường được dùng để nấu cao hổ cốt, cao gấu, cao khỉ, cao báo, cao sơn dương. Xương ngựa, trăn cũng được sử dụng để nấu cao. Ngoài ra, còn dùng toàn bộ con vật để nấu cao như khỉ, sơn dương, hoặc xương súc vật nuôi như trâu, bò, chó, gà, dê để nấu cao.
Cao xương động vật cần được bảo quản nơi khô ráo và kín gió. Hoạt chất từ xương và sừng được chiết xuất bằng nước sôi và phải giữ sôi liên tục để tránh nhiễm khuẩn. Dịch chiết loãng dễ lên men và gây độc nên cần cô ngay ở nhiệt độ từ 70°C trở lên. Trước đây, người ta chú trọng mặt cao đúng quy cách, khi cắt miếng cao phải có hai lớp: lớp trên màu nâu vàng, lớp dưới nâu đen.
Mỗi lần cô đặc dịch chiết cần để yên hoặc nạo nhẹ trên lửa nhỏ để mặt cao nổi lên, hớt ra để riêng. Sau khi trộn và cô ba lần dịch chiết, phần mặt cao được đổ vào chậu cô, khuấy nhẹ cho tan đều và nổi trên mặt, nạo nhẹ để không bén. Khi đổ cao ra khay phải cẩn thận không làm lộn mặt. Để nguội sẽ có lớp cao vàng nâu bóng đẹp, là phần bổ nhất và tác dụng mạnh nhất. Bã xương chứa nhiều muối calci có thể thu lại để chế muối tricalci phosphat làm nguyên liệu cốm calci, bổ sung calci cho cơ thể.
Các loại cao xương động vật rất phổ biến và có nhiều ứng dụng trong Đông y. Chúng được sử dụng rộng rãi để bồi bổ sức khỏe và điều trị nhiều bệnh lý.
Một số loại cao động vật thường thấy trong Đông y gồm: cao hổ cốt, cao gấu, cao khỉ, cao báo, cao sơn dương. Chúng có tác dụng quý giá trong việc bồi bổ và chữa bệnh.
- Cao xương hổ (Cao hổ cốt): Xương hổ, hay còn gọi là Hổ cốt hoặc Đại trùng cốt, được phơi khô để làm cao. Theo Đông y, cao xương hổ có tính nóng, vị cay và mặn, đi vào kinh can và thận, chữa phong hàn thấp, đau nhức gân xương, mỏi lưng, nhức chân, hồi hộp, lo sợ, điên cuồng và bổ khí huyết hư tổn.
- Cao xương báo: Xương báo, hay còn gọi là Báo cốt, được dùng làm thuốc bổ toàn thân. Đông y cho rằng cao từ xương báo có tính hơi ấm, vị cay và mặn, đi vào kinh can và thận, dùng để chữa đau nhức gân xương, tê thấp dưới dạng cao mềm.
- Cao xương gấu: Xương gấu, hay còn gọi là Hùng cốt, có tính ấm, vị cay và mặn, đi vào kinh can và thận. Dùng để bồi bổ khí huyết hư tổn, chữa chân lạnh đau buốt (cước khí), nhức mỏi gân xương, trẻ em trúng phong co giật, sử dụng dưới dạng cao mềm.
- Cao xương hươu: Xương hươu nai, hay còn gọi là Lộc cốt, được phơi khô để làm cao. Có tính hơi ấm, vị mặn, đi vào kinh can và thận, thường phối hợp với các loại xương thú khác để nấu thành cao bổ khí huyết hư tổn, uống dưới dạng cao mềm hoặc rượu.
- Cao xương khỉ: Xương khỉ, hay còn gọi là Hầu cốt, có tính hơi ấm, vị mặn, đi vào thận. Dùng làm thuốc bổ máu, bổ toàn thân, thường dùng cho phụ nữ kém ăn, kém ngủ, xanh xao, thiếu máu, ra mồ hôi trộm, dưới dạng cao mềm hòa với mật ong.
- Cao xương dê: Xương dê, hay còn gọi là Dương cốt, có tính ấm, vị mặn, đi vào kinh can, tỳ và thận. Dùng làm thuốc bổ máu, cho phụ nữ sau sinh cơ thể gầy yếu, ăn kém, sữa ít, phối hợp với các loại xương thú khác để nấu cao bổ toàn thân.
- Cao quy bản: Quy bản, hay yếm rùa, có tính lạnh, vị ngọt và mặn, đi vào kinh thận, tâm, can, tỳ. Chữa thận âm suy yếu, ù tai, nóng nhức trong xương, ho lâu ngày, di tinh, đau nhức tay chân, lưng gối, khí hư bạch đới.
- Cao mai ba ba: Mai ba ba, hay Miết giáp, có tính lạnh, vị mặn, đi vào kinh can, thận, tỳ, phế. Dùng làm thuốc bổ âm, chữa lao gầy, lao lực quá độ, nhức xương, sỏi tiết niệu, phụ nữ bế kinh, dùng ở dạng bột, sắc hoặc cao mềm.
- Các loại cao khác như cao trăn toàn tính, cao khỉ toàn tính, cao dán ngoài như cao rết, cao nọc rắn, cao ngựa bạch từ ngựa bạch Việt Nam cũng rất phổ biến.