Dàn ý
a) Phân tích đề
- Đề bài yêu cầu phân tích việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong hai bài thơ Bánh trôi nước và Tự tình II của Hồ Xuân Hương.
- Nội dung tập trung vào ngôn ngữ giản dị, thuần Việt, cùng cách sáng tạo từ kho tàng ca dao, tục ngữ.
- Thao tác nghị luận là phân tích, cảm nhận, và tổng hợp.
b) Lập dàn ý
Các ý chính cần trình bày là:
- Ngôn ngữ dân tộc trong hai bài thơ Bánh trôi nước và Tự tình II được thể hiện tự nhiên và linh hoạt:
+ Khả năng nâng cao biểu đạt của chữ Nôm trong sáng tác văn học.
+ Sử dụng từ ngữ thuần Việt.
+ Vận dụng nhiều ý thơ từ kho tàng ca dao, tục ngữ.
- Cảm nhận: Sự sáng tạo táo bạo của Hồ Xuân Hương khẳng định vị trí đáng kính của bà trong thơ Nôm và văn học trung đại. Xuân Diệu gọi bà là 'Bà Chúa thơ Nôm' với sự ngưỡng mộ.
Bài mẫu
Nhà thơ Xuân Diệu vô cùng yêu mến và tôn kính nữ sĩ Hồ Xuân Hương, gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm”. Với tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc tinh tế, nữ sĩ xứng đáng với danh hiệu đó. Hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Hồ Xuân Hương là Bánh trôi nước và Tự tình II.
Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật, thường được dùng để gửi gắm suy nghĩ về xã hội. Hồ Xuân Hương nhìn bánh trôi nước và liên tưởng đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ngôn ngữ thơ tuân theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật nhưng vẫn thuần là lời nói hàng ngày.
Bánh trôi nước là loại bánh làm từ bột nếp và đường, nổi lên và chìm xuống khi nấu. Hồ Xuân Hương dùng hình ảnh bánh trôi để miêu tả thân phận phụ nữ, thể hiện phẩm giá cao quý của họ dù phải chịu nhiều khó khăn.
Câu thơ: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” tả vẻ đẹp của bánh trôi, đồng thời ẩn chứa sự kiên cường của phụ nữ. Trong xã hội phong kiến, phụ nữ bị ràng buộc và bị coi thường, nhưng họ vẫn giữ phẩm giá của mình.
Bảy nổi ba chìm diễn tả số phận lận đận của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương dùng thành ngữ này để nói lên nỗi đau và bất bình trước tình cảnh của phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, em vẫn giữ tấm lòng son: Hồ Xuân Hương nói đến sự thiếu tự do của phụ nữ, nhưng nhấn mạnh phẩm giá và lòng trung thực của họ. Chiếc bánh trôi nhỏ bé, trắng trong tượng trưng cho phẩm giá của phụ nữ.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Câu đầu diễn tả thời điểm đêm khuya yên tĩnh, tiếng trống canh vang xa, tạo cảm giác buồn bã. Câu thơ tiếp theo: “Trơ cái hồng nhan với nước non” miêu tả sự trơ trọi của vẻ đẹp trong đêm tối.
Câu thơ thứ hai sử dụng ngôn ngữ dân gian và văn chương để nói về tình trạng đơn độc của nữ sĩ. Vẻ đẹp được ví như một vật vô tri trước con mắt vô cảm của người đời, thể hiện nỗi đau và bất bình.
Nữ sĩ không muốn chìm đắm trong cảm xúc thương thân tủi phận. Cố say để quên, nhưng khi tỉnh rượu, vẫn cảm nhận nỗi đau khổ.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Sự tỉnh rượu chỉ tăng thêm nỗi cô đơn và buồn bã. Mong muốn hạnh phúc không được thỏa mãn giống như vầng trăng khuyết chưa tròn.
Cảm xúc buồn bã không kéo dài, nữ sĩ thể hiện niềm tin vào tình yêu và cuộc sống. Hồ Xuân Hương tin vào ý chí của mình, nhìn nhận những sự vật xung quanh như rêu, đá để thể hiện niềm tin.
Nữ sĩ dùng hình ảnh rêu và đá để nhắc nhở mọi người hãy vươn lên, khẳng định bản thân và sống tự do.
Dù là tự tình, nữ sĩ đã bày tỏ nỗi lòng của mình nhưng vẫn giữ tính khái quát cao, thể hiện niềm tin vào cuộc sống và tình yêu.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Hồ Xuân Hương kết thúc bài thơ với cảm giác ngán ngẩm trước sự đi đi về về của mùa xuân. Bà ước ao một mảnh tình nhỏ bé, dù chỉ là “tí con con”, trong đời sống đầy khó khăn.
Hai bài thơ trên thể hiện phong cách của Hồ Xuân Hương, một nhà thơ tài hoa trong văn học tiếng Việt. Bà đã góp phần làm giàu thêm tiếng Việt và tạo dấu ấn sâu sắc trong thơ ca dân tộc.