1. Chuyên gia tư vấn: Khái niệm thải ghép thận là gì?
Khi thận của người bệnh bị tổn thương và suy yếu đến mức không thể hoạt động bình thường, ghép thận trở thành phương pháp cuối cùng và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, việc tìm kiếm nguồn thận phù hợp cho người nhận là thách thức lớn, nhằm giảm thiểu nguy cơ phản ứng thải ghép trong cơ thể. Dù đã lựa chọn cẩn thận, người nhận vẫn có thể phản ứng thải ghép nhất định.
Vai trò quan trọng của thận trong hệ tiết niệu và sức khỏe cơ thể không thể phủ nhận
Cơ chế hoạt động của phản ứng thải ghép diễn ra theo 2 cách sau đây:
Thải ghép chất lỏng
Loại phản ứng thải ghép này xảy ra khi có sự tương tác giữa kháng thể tự nhiên trong cơ thể với kháng nguyên không đồng nhất như ghép một lần, truyền máu, hoặc thai nghén.
Thải ghép tế bào
Phản ứng thải ghép xảy ra khi mô ghép gặp sự không tương hợp giữa hai hệ thống kháng nguyên bạch cầu của người cho và người nhận. Các kháng nguyên thường gặp trong ghép thận và các ghép tạng khác là loại A, B và DR.
Hoạt động thải ghép thận là một phản ứng tự nhiên của hệ miễn dịch, giúp bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân lạ có thể gây hại. Tuy nhiên, đây cũng là điều không tốt vì nó có thể tấn công, phá hủy mô ghép trong cơ thể, gây ra sự suy giảm hoạt động của thận mới.
Thải ghép thận là hiện tượng thường gặp khi cơ thể tiếp nhận một thận từ người khác
Nếu người nhận có quan hệ huyết thống gần với người cho thận, thì kháng nguyên bề mặt của tế bào sẽ ít khác biệt hơn, dẫn đến ít phản ứng thải ghép hơn. Các dấu hiệu nhận biết bao gồm:
-
Cảm giác không thoải mái, mệt mỏi, ốm bệnh sau khi ghép thận.
-
Chức năng thận ghép bắt đầu suy giảm.
-
Triệu chứng giống như cúm cho thấy hệ miễn dịch gặp vấn đề: ớn lạnh, buồn nôn, đau nhức cơ thể, khó thở, ho,…
-
Đau, sưng vùng khu vực bụng gần thận.
Ngoài ra, phản ứng thải ghép thận còn gây ra tình trạng tiểu ít, tiểu khó. Tùy vào dạng thải ghép thận mà thời điểm xảy ra sau ghép là khác nhau, có thể xuất hiện sớm trong vài tuần hoặc vài tháng sau ghép hoặc muộn sau nhiều năm.
2. Các dạng thải ghép thận
Bệnh nhân sau ghép thận có thể gặp phải nhiều dạng đào thải, xảy ra nhiều nhất trong khoảng thời gian 3 tháng đầu. Trong đó, miễn dịch thể dịch hay miễn dịch qua trung gian tế bào thường gây ra những phản ứng thải ghép thận cấp nguy hiểm và sớm, còn miễn dịch tế bào gây thải ghép kéo dài.
2.1. Thải ghép thận dạng tối cấp
Nguyên nhân gây ra phản ứng thải ghép tối cấp này là sự có mặt của kháng thể độc tế bào với nồng độ cao trong huyết thanh người nhận chống lại kháng nguyên trên tế bào nội mô mạch máu thận ghép. Đây là dạng thải ghép nặng, xảy ra tức thì trước khi mô ghép hình thành mạch máu tân tạo.
Thải ghép thận có thể gây biến chứng nguy hiểm
Phức hợp kháng thể - kháng nguyên hình thành lúc này sẽ nhanh chóng hoạt hóa hệ thống bổ thể, dẫn tới thâm nhiễm bạch cầu trung tính trong mô ghép. Kết quả là sự hình thành các cục máu đông nằm rải rác các mao mạch, dẫn tới tắc nghẽn mạch máu, giảm sinh mạch máu và khiến thận mới ghép bị hoại tử nhanh chóng.
2.2. Thải ghép thận cấp thể dịch
Thải ghép thận cấp thể dịch là loại rối loạn chức năng thận nặng, có thể xuất hiện trong 2 trường hợp:
-
Thận ghép không phục hồi chức năng do sự hiện diện của kháng thể đặc hiệu của người nhận chống lại người cho.
-
Thải ghép xảy ra sớm và nặng, còn được gọi là thải ghép gia tốc.
Thải ghép thận cấp thể dịch có thể xảy ra sớm hoặc muộn sau khi ghép, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Đa số là do bệnh nhân không tuân thủ điều trị, tự ý giảm liều thuốc hoặc không tuân thủ điều trị ức chế miễn dịch.
2.3. Thải ghép thận cấp tế bào
Đây là loại thải ghép thận phổ biến nhất, thường xuất hiện sau 10 ngày đến 3 tháng sau khi ghép. Các triệu chứng thường gặp bao gồm: sốt, mệt mỏi, tăng huyết áp, đau thận ghép, có hoặc không có tiểu ít. Thải ghép thận cấp tế bào có thể được phát hiện thông qua việc ngưng trệ sự giảm số lượng Creatinin trong huyết thanh, mặc dù chức năng thận có dấu hiệu phục hồi ngay sau khi ghép.
Việc sử dụng thuốc chống miễn dịch là quan trọng khi bệnh nhân gặp phản ứng thải ghép
3. Phản ứng thải ghép thận có nguy hiểm không?
Phản ứng thải ghép thận là một phản ứng miễn dịch tự nhiên của cơ thể, nhưng đôi khi cần kiểm soát quá trình này để đảm bảo sự thích nghi của cơ quan ghép trong cơ thể mới. Hầu hết bệnh nhân ghép thận đều trải qua phản ứng thải ghép từ nhẹ đến nghiêm trọng tùy thuộc vào sự không phù hợp về kháng nguyên giữa thận người cho và thận người nhận.
Tuy nhiên, nguồn ghép thận được chọn lựa cẩn thận, đảm bảo tính tương thích với người nhận, do đó hầu hết phản ứng thải ghép có thể được kiểm soát. Khi phát hiện các dấu hiệu sớm của quá trình từ chối ghép, bệnh nhân cần sử dụng thuốc ức chế miễn dịch để ngăn chặn quá trình này.
Đối với các trường hợp thải ghép thận cấp tính, việc sử dụng thuốc và theo dõi chặt chẽ có thể giúp ngăn ngừa nguy cơ biến chứng gây suy nội tạng, làm hỏng thận mới ghép. Trong những trường hợp không thể kiểm soát được bằng thuốc chống thải ghép, nếu thận mới cho dấu hiệu suy giảm nhanh chóng, ca phẫu thuật ghép tạng khác có thể được thực hiện.
Mặc dù việc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch là cần thiết khi bệnh nhân gặp phản ứng thải ghép thận, nhưng tác dụng của nó lan rộng trên toàn cơ thể, làm cho hệ miễn dịch hoạt động yếu đi. Bệnh nhân trong tình trạng này có nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn, các biến chứng từ nhiễm khuẩn cũng nguy hiểm hơn. Một số trường hợp có thể gây ra các biến chứng như: ung thư, nhiễm trùng, mất chức năng của thận ghép, và tác dụng phụ nghiêm trọng của thuốc,...
Sử dụng thuốc ức chế miễn dịch có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng