Lăng tẩm của vua Khải Định, Minh Mạng và Tự Đức ở Thừa Thiên Huế đều toát lên vẻ kiến trúc độc đáo, quy mô lớn và tráng lệ, thu hút hàng ngày đông đảo du khách ghé thăm.
Thưởng thức hành trình du lịch Huế tại ba lăng tẩm vương triều Nguyễn
Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức là một trong những kiệt tác của kiến trúc thời Nguyễn. Vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình nơi nghỉ cuối cùng phản ánh sự tinh tế và lãng tử bậc nhất trong dòng vua chúa Nguyễn.
Được xây dựng tại thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế, lăng nằm trong một thung lũng hẹp tạo nên điểm du lịch không thể bỏ qua khi bạn đến thăm Huế.
Trong bức tranh xã hội gian nan, khi kẻ thù ngoại xâm đe dọa từ bên ngoài và bên trong, những mảnh đời anh em tranh giành quyền lực, nhà vua đau ốm và không có con. Để tránh né cuộc sống khó khăn đó, Tự Đức quyết định xây dựng khu lăng tẩm này như một không gian thứ hai để xua đi nỗi buồn và chuẩn bị cho “cuộc phiêu lưu cuối cùng”.
Khi bắt đầu xây dựng, vua Tự Đức đặt tên cho công trình là Vạn Niên Cơ. Tuy nhiên, sau cuộc khởi nghĩa Chày Vôi do Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, vua quyết định đổi tên thành Khiêm Cung, và sau khi vua qua đời, nó được biết đến với cái tên Khiêm Lăng.
Khu lăng được chia thành hai phần chính, được sắp xếp song song trên hai trục, với núi Giáng Khiêm ở phía trước, núi Dương Xuân làm hậu cảnh và hồ Lưu Khiêm tạo điểm nhấn cho không gian.

Toàn cảnh lăng Tự Đức giống như một công viên rộng lớn. Quanh năm, có suối chảy, tiếng thông reo và hòa nhạc của muôn loài chim. Trong lăng Tự Đức, yếu tố được đặt lên hàng đầu là sự hài hòa trong từng đường nét. Không có những con đường thẳng tắp và cạnh tranh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng, bắt đầu từ cổng Vụ Khiêm, đi qua Khiêm Cung Môn và uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ, rồi đột ngột khuất vào giữa những hàng cây sứ đại thụ bên cạnh lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh.

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực, từ tẩm điện đến lăng mộ, đều mang chữ Khiêm trong tên. Sau khi vượt qua cổng Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần, du khách sẽ đi trên con đường chính dẫn vào khu vực tẩm điện, nơi trước kia là khu vực nghỉ ngơi và giải trí của vua. Ngay phía bên trái là Chí Khiêm Đường, nơi thờ các bà vợ của vua. Tiếp theo là ba dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở phía trước.
Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho những lúc vua cần nghỉ ngơi khi đến đây. Ở giữa là điện Hòa Khiêm, nơi vua làm việc và ngày nay được dùng để thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Ở hai bên là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu, nơi dành cho các quan văn võ phục vụ vua. Ngay phía sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, trước đây là nơi vua nghỉ ngơi và sau này được sử dụng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường – nơi lưu trữ đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái của điện Lương Khiêm có Nhà hát Minh Khiêm để vua thưởng thức nghệ thuật biểu diễn, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện vẫn còn tồn tại.

Một đường hành lang nối điện Ôn Khiêm với Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện, là nơi cư trú của các cung phi theo dõi vua, cả khi vua còn sống và sau khi vua qua đời. Ngay gần đó, có Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và khu vườn chăn nuôi nai của vua.
Với 36 năm lên ngôi, Tự Đức giữ vị trí vua lâu nhất trong số 13 vị vua nhà Nguyễn.
Lăng Minh Mạng

Tháng 2/1820, sau khi vua Gia Long qua đời, hoàng tử thứ tư Nguyễn Phúc Đảm được lên ngôi với niên hiệu Minh Mạng. Vua Minh Mạng đóng góp lớn trong việc mở rộng lãnh thổ, đưa Đại Nam trở thành quốc gia mạnh nhất trong khu vực Đông Nam Á thời kỳ đó.
Trong 7 năm trị vì, Minh Mạng đã tìm kiếm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình. Địa lý học gia Lê Văn Đức chọn một vùng đất tốt ở núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch hội tụ tạo thành sông Hương quyến rũ. Sau 14 năm suy nghĩ và lựa chọn, vào năm 1840, vua quyết định xây dựng lăng mộ của mình tại đây.

Trong khu vực giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750 m, là một tập hợp kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được xếp theo trục dọc theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn và kết thúc tại chân La thành phía sau mộ vua. Hình dáng của lăng như một hình ảnh người nằm nghỉ thoải mái, đầu đặt trên núi Kim Phụng, chân duỗi ra tạo thành sự thư giãn, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông rộng tự nhiên.

Từ bên ngoài vào, các công trình được phân phối trên ba trục song song với Thần đạo là trục trung tâm.
Nằm xen giữa những kiến trúc là hồ nước hương sen và những đồi thông rợp bóng mát, tạo nên phong cảnh hòa quyện giữa tình tự và hùng vĩ.
Bắt đầu với Đại Hồng Môn, cổng chính của lăng, được xây bằng vôi gạch, cao 9 m, rộng 12 m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân,… được coi là biểu tượng của cổng tam quan thời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào lăng, sau đó đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Đằng sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, sân lát gạch Bát Tràng (45×45 m), hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa đứng chầu. Phía cuối sân là Bi Đình đặt trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bài văn của vua Thiệu Trị về tiểu sử và công đức của vua cha.

Trong điện thờ vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu. Hoằng Trạch Môn kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra không gian hoa lá và mây nước phía sau. Tất cả các công trình hiện thực dường như kết thúc tại khu vực tẩm điện.
17 bậc thềm đá Thanh hướng du khách vào một thiên đàng xanh mát với bóng cây và mùi hương thoang thoảng của hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) qua hồ Trừng Minh như những dải lụa xanh, dẫn du khách đến Minh Lâu – một công trình tựa như một sự khám phá trên quả đồi được gọi là Tam Tài Sơn.
Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là biểu tượng của triết học Đông phương. Hai bên Minh Lâu, phía sau là hai trụ uy nghi đứng trên Bình Sơn và Thành Sơn, mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi trở về cõi vĩnh hằng.

Băng qua cầu Thông Minh Chính Trực qua hồ Tân Nguyệt với 33 bậc thang, du khách sẽ bước vào nơi nghỉ ngơi của nhà vua, nằm giữa trái tim của quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được bao quanh bởi Bửu Thành hình tròn.
Hai bên trục chính của lăng có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp. Thật đáng tiếc thời gian và mưa gió đã làm hư hại chúng, nên khi khách du lịch Huế đến tham quan, họ sẽ không còn chiêm ngưỡng được những cung điện, đình tạ xinh xắn, giữa vòm cây, nơi ánh đèn ban đêm tạo nên bức tranh huyền bí bên mặt hồ trong xanh.
Lăng Khải Định
Vua Khải Định (1916-1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, là người cuối cùng xây dựng lăng tẩm, chuẩn bị cho sự “ra đi” của một vị vua trong giai đoạn cuối cùng của chế độ phong kiến.
Bước lên ngôi vàng vào tuổi 31, Khải Định dành rất nhiều công sức để xây dựng cung điện, dinh thự, và lăng tẩm cho bản thân và hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Định, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, đặc biệt là Ứng Lăng. Những công trình này đã đòi hỏi nhiều nhân lực và của cải từ nhân dân, nhưng cũng là những tác phẩm nghệ thuật và văn hóa độc đáo.

Sau khi tham khảo nhiều ý kiến của các nhà Địa lý, Khải Định chọn núi Châu Chữ (hay Châu Ê) làm địa điểm để xây lăng mộ. Nằm ở vị trí này, lăng Khải Định sử dụng quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt được gọi là “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”; khe Châu Ê chảy từ trái sang phải được gọi là “thủy tụ”, còn được biết đến với tên gọi “minh đường”. Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ thành Ứng Sơn và đặt tên lăng theo tên núi: Ứng Lăng.
Lăng bắt đầu xây dựng vào ngày 4/9/1920 và kéo dài trong suốt 11 năm để hoàn thành.

Khải Định đã mua sắm sắt, thép, xi măng, và ngói Ardoise từ Pháp, đồ sứ và thủy tinh màu từ Trung Hoa và Nhật Bản để xây dựng công trình. Mặc dù diện tích lăng rất khiêm tốn: 117×48,5 m, nhưng công trình này rất công phu và mất rất nhiều thời gian.
Nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… đã ảnh hưởng đến lăng Khải Định, tạo nên những đặc điểm độc đáo như cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ, trụ biểu dạng stoupa của Phật giáo, hàng rào thánh giá, nhà bia với hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể… Điều này là kết quả của sự giao thoa văn hóa Đông – Tây trong giai đoạn giao thời lịch sử và cá tính độc đáo của Khải Định.

Nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa “Cửu long ẩn vân” trên trần 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định, chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời trong lăng Khải Định. Nhờ sự đóng góp của ông và nhiều nghệ nhân dân tài năng khác, lăng Khải Định đã trở thành biểu tượng và đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy tinh.
Theo Lê Huy Hoàng Hải/Zing news
***
Tham khảo: Hướng dẫn du lịch trên Mytour.com
Mytour.comNgày 12 tháng Tư năm 2018