Nhà văn M.B Khrapchenko đã từng nói: “Mỗi sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh họa giản đơn cho tư tưởng này hoặc tư tưởng khác cho dù đó là tư tưởng rất hay”. Thật vậy, một tác phẩm nghệ thuật muốn đi sâu vào tâm hồn của người đọc thì nó phải là sự sáng tạo của cá nhân nhà văn, tác phẩm đó phải phản ánh được cái nhìn riêng của tác giả chứ không phải là sự sao chép sáo rỗng tư tưởng, cái nhìn của người khác. “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm sáng tạo như vậy. Cách khám phá đời sống mới mẻ của nhà văn đã làm nên một “sáng tạo nghệ thuật chân chính” tạo nên chiều sâu tư tưởng cao đẹp cho tác phẩm.
Với tư cách người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã kể lại câu chuyện về chuyến đi công tác của mình khi được người trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào bộ lịch năm mới. Một cảnh biển buổi sáng có sương, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng bảy. Tại đây, sau nhiều ngày “phục kích” thiên nhiên, Phùng ngẫu nhiên gặp được một cảnh đắt trời cho:“trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi” .Trước vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp chặt vào”. Trong khoảnh khắc đó, anh ta “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng ngay sau “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại” nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã chứng kiến một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi nó còn ở ngoài xa với một “ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của “chiếc thuyền ngoài xa”. Bước ra từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn ông với tấm lưng rộng, cong như lưng chiếc thuyền và một đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi. Hình ảnh con người hiện ra với vai trò là nhân vật trung tâm của bức tranh cuộc sống xã hội, để rồi từ đó Phùng có thể bám sâu vào hiện thực ấy phản ánh chân thật về con người, về những đều chưa thấy hay chỉ có thể nghe. Sau khi đi đến chiếc xe rà phá mìn trên bãi cát, người đàn ông “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Còn người đàn bà thì nhẫn nhục, cam chịu, không hề kêu một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy. Tiếp sau đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố để bị lão đàn ông “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã xuống cát”. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Người đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa con cũng đuổi theo gã đàn ông, trở lại thuyền. Một tình huống thật kỳ lạ !
Có lẽ không ai có thể tưởng tượng được cảnh tượng đó diễn ra trong hoàn cảnh cuộc sống mới, hoàn toàn trái ngược với triết lý 'người yêu người, sống để yêu nhau' mà chúng ta thường xây dựng. Sự bất công đó diễn ra ngay trước mắt những người lính đã chiến đấu cho sự giải phóng đất nước, giải phóng con người, và điều đó đã gây ra một cơn giận dữ. Anh nghĩ về người đàn ông kia như là 'gã đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian', còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông đã khiến anh ngộ ra mình là anh hùng: 'Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong những ngày cuối cùng của chiến tranh trên mảnh đất này. Dù trong hoàn cảnh nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh đập một người phụ nữ, dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó xe tăng kín đáo để hắn đánh đập'. Nhưng phản ứng của người phụ nữ trước án phán đã khiến anh choáng váng: 'Quí tòa có thể kết án và phạt tù tôi, nhưng đừng bắt tôi bỏ anh ấy...'. Hóa ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có tấm lòng tốt vì 'họ không phải là người làm ăn... do đó, họ không thể hiểu được khó khăn của những người làm ăn lam lũ'. Người phụ nữ khốn khổ ấy đã không từ chối người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu đựng những cú đánh, phải chứng kiến cảnh cha con giao tranh nhau như kẻ thù, phải đương đầu với cuộc sống giữa sóng gió. Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hóa ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản: người đàn ông kia dù thô bạo nhưng trên chiếc thuyền cần phải có cả người đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả gia đình quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền, khiến người phụ nữ nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ đó vẫn tiềm ẩn nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người phụ nữ gục ngã bất cứ lúc nào... Nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền chật hẹp, người phụ nữ ấy là hiện thân của một sự hy sinh không mối mạng. Tình yêu giữa chồng với con được nhìn nhận từ cuộc sống trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng, khiến cho 'một cái gì đó mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển'. Sự vỡ lẻ đó chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, lòng nhân ái, sự khoan dung... mang giá trị nhân văn sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mang đến cái nhìn đa chiều về số phận con người. Nếu trước đây, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì luôn đề cao khả năng con người vượt qua khó khăn và tìm thấy hạnh phúc. Khi mô tả sự biến động của tính cách con người, các nhà văn thường nói về sự biến động tích cực, từng bước vượt qua hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy thường có phần giản đơn và lý trí. Nguyễn Minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong 'Chiếc thuyền ngoài xa', ông đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong cuộc sống con người. Bằng sự cảm thông và hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn toàn diện về vẻ đẹp của cuộc sống, hiểu cả bề mặt và chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng nói: 'Văn học và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm, tâm điểm là con người'. 'Nhà văn tồn tại trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc như kẻ nâng giấc mơ cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi đẩy con người đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất lòng tin vào con người và cuộc sống để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực'. Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm 'Chiếc thuyền ngoài xa' như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức sâu sắc: 'cuộc sống không phải lúc nào cũng là nghệ thuật, và con người cần có khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật, nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc sống thì phải tiếp cận cuộc sống, đi sâu vào và sống cùng nó'.(Lê Ngọc Chương). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình mang lại cho công chúng cái nhìn về vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, nhưng ít ai biết được sự thật đằng sau vẻ đẹp ấy? Phần kết của tác phẩm đề lại nhiều suy ngẫm: 'Kỳ lạ thật, dù là ảnh đen trắng, nhưng mỗi lần nhìn kỹ, tôi vẫn thấy màu hồng của sương mai hiện ra, như lúc tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bất cứ khi nào tôi cũng thấy người phụ nữ ấy bước ra khỏi tấm ảnh, một người phụ nữ vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước chậm rãi, bàn chân dập trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông'. Cuộc sống vẫn thế, vẫn đẹp, vẫn êm đềm, nhưng nếu không có lòng nhận biết những khó khăn trong số phận, thì những vẻ đẹp như màu hồng của sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn sau lớp sương đó, phải tiếp cận sự thật để hiểu ý nghĩa thực sự của cuộc sống và con người.
Qua góc nhìn đa chiều của các nhân vật, chúng ta nhận thấy cái nhìn sâu sắc của tác giả. Nguyễn Minh Châu chọn một người kể chuyện là một nghệ sĩ đã từng là lính, điều này không phải là ngẫu nhiên. Từ góc nhìn của một người lính, chúng ta được nghe về một cuộc chiến mới, một cuộc chiến bảo vệ nhân tính và vẻ đẹp tinh thần trong cuộc sống hòa bình, một cuộc chiến để tìm kiếm hạnh phúc và giá trị thực sự của cuộc sống. Nhà văn giúp chúng ta nhận ra 'những điều trông thấy mà đau đớn lòng' trong cuộc sống, từ đó rút ra những bài học nhân văn quý báu. Đó là cái nhìn mới về cuộc sống con người mà nhà văn mang lại!
Trong truyện ngắn 'Chiếc thuyền ngoài xa', Nguyễn Minh Châu giúp người đọc cảm nhận được sự đa chiều của cuộc sống. Cuộc sống giống như một bản nhạc, không chỉ có những giai điệu dễ nghe, nhẹ nhàng mà còn chứa đựng những giai điệu bay bổng, cao vút. Cuộc sống không chỉ có niềm vui và hạnh phúc mà còn có những nỗi đau và khổ đau. Chúng ta cần nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, sâu sắc để tránh cái nhìn hạn hẹp và giản đơn. Giá trị thực sự của một tác phẩm là phản ánh được cuộc sống thật của con người, như tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện. Sự khám phá mới này đang làm nên một trào lưu văn học mới, và Nguyễn Minh Châu đã trở thành cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.