I. Xây dựng dàn ý
1. Mở đầu
- Tình yêu thiên nhiên là chủ đề nổi bật trong văn học Việt Nam.
- Các nhà thơ Việt Nam đương đại đã đóng góp những điểm nhấn đặc biệt vào chủ đề này. Độc giả sẽ cảm nhận được tình yêu thiên nhiên sâu sắc của hai nhà thơ: Thanh Hải qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và Hữu Thỉnh qua bài thơ Sang thu.
2. Thân bài
a. Tình yêu thiên nhiên của các nhà thơ qua tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ:
- Tình yêu thiên nhiên – mùa xuân xứ Huế của tác giả được thể hiện một cách tinh tế.
- Nghệ thuật phối hợp màu sắc thể hiện sự hài hòa của thiên nhiên: những bông hoa tím biếc và dòng sông xanh mát.
- Việc thay đổi trật tự cú pháp trong câu thơ vắt dòng như: Mọc giữa dòng sông xanh; Một bông hoa tím biếc đã nhấn mạnh sự vươn lên của thiên nhiên khi mùa xuân đến, tạo nên sắc xuân đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Bông hoa tím biếc làm cho bức tranh xuân trở nên giản dị và gần gũi.
- Hai câu thơ tiếp theo đã mở rộng không gian nghệ thuật của bức tranh xuân. Tín hiệu của mùa xuân còn được thể hiện qua tiếng hót vang của con chim chiền chiện: Ơi con chim chiền chiện, hót chi mà vang trời.
+ Thành phần gọi – đáp ơi đã nhân hóa con chim chiền chiện, biến nó thành người bạn.
+ Từ ngữ hót chi – từ ngữ địa phương tăng cường tính biểu cảm của câu thơ.
- Hai câu thơ thứ 5 và 6 trong khổ thơ gợi bóng dáng của nhân vật trữ tình trong bài thơ: Từng giọt long lanh rơi; Tôi đưa tay hứng.
+ Từng giọt long lanh có thể hiểu theo nhiều cách: giọt sương treo trên ngọn cỏ, giọt mưa xuân, hoặc âm thanh của tiếng chim.
=> Theo dòng cảm xúc, đây có thể là âm thanh của tiếng chim.
- Phép tu từ ẩn dụ (chuyển đổi cảm giác) làm cho bức tranh xuân trở nên thơ mộng và trữ tình, với hành động đưa tay hứng âm thanh tiếng hót của chim chiền chiện, diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
=> Đoạn thơ tạo nên một bức tranh hoàn hảo với dòng sông, hoa cỏ, tiếng chim hót, bầu trời, sương mai, ánh xuân, và con người. Bức tranh này thể hiện sắc xuân, tình xuân, và cả khúc nhạc xuân, thể hiện tình yêu thiên nhiên – mùa xuân của thi nhân!
b. Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Sang thu
- Khi đọc Sang thu của Hữu Thỉnh, ta lại được thưởng thức vẻ đẹp tinh tế, những cảm xúc sâu lắng của một tâm hồn nghệ sĩ trong khoảnh khắc thu về.
- Sự độc đáo bắt đầu từ hương ổi – hương thu: Bỗng cảm nhận được hương ổi; Phả vào gió se; Sương lãng đãng qua ngõ, như thể thu đã đến.
+ Cụm từ phả vào vừa gợi cảm giác bất chợt trong nhận thức, vừa hiện thực hóa hương ổi, và đồng thời diễn tả sự chuyển động nhẹ nhàng của gió.
+ Từ láy chùng chình nhân hóa sương, gợi lên sự rung động của cây cối, tâm trạng vô tư lự của con người, và không khí man mác của mùa thu.
+ Thành phần biệt lập – thành phần tình thái hình như thể hiện chút nghi ngờ và bâng khuâng, với cảm giác không rõ ràng của sự chuyển mình mùa thu mặc dù tín hiệu thu đã rõ ràng.
- Cảm xúc trong thời điểm giao mùa tiếp tục lan tỏa, mở rộng tầm nhìn: Sông trở nên dềnh dàng; Chim bay bắt đầu vội vã; Đám mây mùa hạ dường như vắt nửa mình sang thu.
+ Từ láy dềnh dàng nhân hóa dòng sông, không còn cuồn cuộn, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hè, mà trở nên chậm rãi và thong thả.
+ Đối lập với sự dềnh dàng của sông là sự vội vã của những cánh chim. Từ láy vội vã nhân hóa những cánh chim đang chuẩn bị bay về phương Nam để tránh rét.
=> Sự đối lập này gợi lên sự vận động của các yếu tố trong khoảnh khắc giao mùa. - Hình ảnh thơ đẹp và biểu cảm nhất là: Đám mây mùa hạ dường như vắt nửa mình sang thu.
+ Phép nhân hóa trong câu thơ tạo nên sự bất ngờ thú vị, tinh tế: Áng mây thực nhưng ranh giới mùa là sản phẩm của trí tưởng tượng nhà thơ.
+ Đám mây trôi trên bầu trời, nửa còn lại mùa hạ và nửa mùa thu, và một lúc nào đó, nó bất ngờ nhận ra mình đang trôi trong một bầu trời thu hoàn toàn.
=> Hình ảnh thơ tự nhiên, không cầu kỳ nhưng đầy gợi cảm. Thể thơ năm chữ vắt dòng tạo nên những liên tưởng thú vị, thể hiện xúc cảm tinh tế trước bước chuyển mùa và diễn tả sự yêu thiên nhiên sâu sắc của Hữu Thỉnh.
- Cách cảm nhận và miêu tả của tác giả rất tinh tế và nhạy cảm, với sự liên tưởng độc đáo. Nhà thơ đã mang đến một sắc thái mới cho mùa thu trong thơ ca Việt Nam.
c. So sánh hai tác phẩm
- Điểm chung:
+ Cả hai thi nhân đều thể hiện tình yêu sâu sắc với thiên nhiên.
+ Tình yêu thiên nhiên của hai nhà thơ đều nhẹ nhàng và tinh tế, vì vậy cảnh sắc thiên nhiên trong hai bài thơ không bị hòa lẫn với các bài thơ khác.
- Điểm riêng:
+ Mùa xuân nho nhỏ: Sử dụng trật tự cú pháp đảo ngược và ẩn dụ; Tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế; Xúc cảm của thi nhân tập trung vào hình ảnh đầy sắc xuân của thiên nhiên, thể hiện tình yêu mãnh liệt với cuộc sống.
+ Sang thu: Hình ảnh đặc sắc và giàu biểu cảm; sử dụng phép nhân hóa; Miêu tả cảnh vườn thu và ngõ xóm đồng bằng Bắc Bộ; Xúc cảm của thi nhân tập trung vào cảm nhận nhẹ nhàng và tình cảm sâu sắc gắn bó với quê hương.
3. Kết luận
- Tình yêu thiên nhiên của hai thi nhân đối với mùa xuân và mùa thu thật chân thành, làm phong phú thêm cảm xúc và tình cảm yêu thiên nhiên của mỗi độc giả.
- Hai bài thơ: Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu, cùng với tâm hồn của Thanh Hải và Hữu Thỉnh, đã làm phong phú thêm vẻ đẹp của thơ hiện đại Việt Nam.
II. Cảm nhận về hình ảnh thiên nhiên trong Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu – Những bài thơ chọn lọc hay nhất
Hình ảnh thiên nhiên qua các thời kỳ từ trung đại đến hiện đại trong bốn mùa của quê hương đã trở thành những bức tranh vĩnh cửu trong các tác phẩm văn học. Chúng ta thấy sự gần gũi, thân thiết và đáng yêu của hình ảnh quê hương trong thơ, mang lại những cảm xúc đẹp đẽ. Quê hương hiện lên với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc nhưng đầy thiêng liêng và thân thuộc. Điều này được thể hiện rõ qua các bài thơ như 'Mùa xuân nho nhỏ' của Thanh Hải và 'Sang thu' của Hữu Thỉnh.
Các nhà thơ có những cách riêng để cảm nhận về quê hương và đất nước. Trong khi Thanh Hải miêu tả mùa xuân trong bài thơ 'Mùa xuân nho nhỏ', thì 'Sang thu' của Hữu Thỉnh lại mô tả cảnh giao mùa từ hạ sang thu. Điều này thể hiện sự đa dạng trong cách thể hiện quê hương và đất nước của các tác giả. Thanh Hải viết 'Mùa xuân nho nhỏ' trong thời điểm đất nước vừa trải qua chiến tranh và bản thân ông cũng gặp khó khăn về sức khỏe, nhưng tình yêu quê hương vẫn hiện rõ qua hình ảnh mùa xuân tươi đẹp của xứ Huế, nơi mùa xuân của thiên nhiên cũng chính là mùa xuân của đất nước và con người.
Nở giữa dòng sông xanh
Một bông hoa màu tím sáng
Hãy nghe tiếng chim chiền chiện
Hót vang cả bầu trời
Những giọt sương long lanh rơi xuống
Tôi giơ tay ra để đón nhận
Thanh Hải đã đưa chúng ta vào thế giới thiên nhiên đầy vẻ đẹp, giúp ta hòa mình vào cảnh sắc mùa xuân rực rỡ. Sau mùa đông lạnh giá, mùa xuân hiện lên với sự ấm áp và sự tươi mới. Các hình ảnh quen thuộc như dòng sông xanh, hoa tím và tiếng chim chiền chiện đã trở lại khắp nơi. Tiếng chim hót và tiếng mưa xuân tạo ra những giọt mật mùa xuân rơi xuống đất. Thanh Hải vô cùng cảm động trước cảnh tượng này, nhẹ nhàng 'hứng' từng giọt mật, thể hiện sự trân trọng mùa xuân. Ông dùng nghệ thuật ẩn dụ để làm mùa xuân trở nên hữu hình, thể hiện tình yêu thiên nhiên qua hình ảnh gần gũi với quê hương xứ Huế.
Nở giữa dòng sông xanh mát
Một bông hoa tím rực rỡ
Chim chiền chiện ơi
Tiếng hót vang vọng cả bầu trời
Cảnh vật thiên nhiên hiện lên không chỉ đẹp mà còn sống động. Câu thơ bắt đầu bằng “mọc” như một điểm nhấn, sự khám phá đầy cảm xúc của nhà thơ. Hai câu thơ đầu tạo nên không gian mùa xuân rộng lớn và tươi sáng với hình ảnh dòng sông xanh trong vắt, chảy êm đềm. Màu xanh của dòng sông phản chiếu bầu trời và cây cối hai bên bờ, một sắc xanh quen thuộc của các con sông miền Trung. Trên nền xanh của dòng sông nổi bật hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, biểu tượng của cánh lục bình hay hoa súng thường thấy ở ao hồ và sông nước làng quê, gợi nhớ những vần thơ khác: “Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng Hoa lục bình tím cả bờ sông…”
Màu tím biếc không thể nhầm lẫn với màu tím Huế, đặc trưng của các cô gái kinh kỳ với sông Hương và núi Ngự. Sắc xanh của nước hòa quyện với tím biếc của hoa tạo điểm nhấn nhẹ nhàng mà sống động. Tiếng chim chiền chiện rộn rã, con sông uốn lượn và màu tím biếc của hoa cùng tạo nên bức tranh mùa xuân tràn đầy sức sống ở quê hương tác giả. Trước cảnh đẹp ấy, nhà thơ không thể giấu nổi xúc cảm. Những từ cảm thán “Ơi”, “Hót chi” thể hiện sự say mê, hân hoan của nhà thơ khi khám phá vẻ đẹp giản dị và quyến rũ của quê hương.
Những giọt nước long lanh rơi
Tôi đưa tay hứng lấy
Cụm từ “giọt long lanh” gợi nhiều hình ảnh phong phú và lãng mạn. Đó có thể là giọt sương lấp lánh trên lá trong buổi sáng mùa xuân, giọt nắng chiếu sáng bên thềm, hay giọt mưa xuân đang rơi… Trong bài thơ, “giọt long lanh” cũng có thể là âm thanh rơi rớt của chim chiền chiện. Hình ảnh “tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự yêu mến và trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nghệ thuật ví von và chuyển đổi cảm giác đã đạt tới sự tinh tế đáng ngưỡng mộ. Hai câu thơ phản ánh sự say mê, xúc động của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân, và tình yêu quê hương, đất nước, cuộc đời của thi sĩ.
Mùa xuân của Thanh Hải tạm xa để chúng ta khám phá tình yêu non sông đất nước được khơi nguồn từ cảnh sắc thiên nhiên trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Thi sĩ thể hiện tình yêu đất nước qua nhiều cung bậc cảm xúc. Hữu Thỉnh, với cái nhìn tinh tế và cảm nhận sắc bén, đã vẽ lại bức tranh chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu”. Bài thơ giúp ta chiêm ngưỡng những khoảnh khắc giao mùa tinh tế mà lâu nay chúng ta bỏ qua. Hình ảnh đất nước quê hương được nhà thơ khắc họa qua phút giao thừa cuối hạ sang thu thật sâu sắc và tinh tế. Mở đầu từ một khu vườn ngoại ô đồng bằng Bắc Bộ:
“Bỗng cảm nhận hương ổi
Nhẹ nhàng theo gió se”
Không phải sắc thái “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác”, mà chính là hương ổi quen thuộc từ vườn mẹ đã đánh thức những giác quan nhạy bén nhất của nhà thơ. Hương vị giản dị, mộc mạc, đồng nội, đặc trưng của quê hương. Câu thơ mang hương vị ấm áp của mùa thu đến từ một vùng quê nhỏ. Tại sao dấu hiệu đầu tiên để tác giả nhận diện mùa thu lại là “hương ổi” chứ không phải các mùi hương khác? Mùi hương quê nhà mộc mạc “thoảng” trong gió nhẹ nhàng bay trong không gian. Tất cả đến với tác giả một cách nhẹ nhàng nhưng cũng đột ngột, mùa thu đến với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Cảm giác đến bất chợt với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ dường như đã chờ đợi từ lâu. Câu thơ không chỉ miêu tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm nồng nàn, vị giòn, ngọt, chua chua của trái ổi vườn quê. Câu thơ ngắn gọn nhưng chứa đựng cả gió và hương. Hương là hương ổi, gió là gió se lạnh. Đây là những đặc trưng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy chứng tỏ tình quê của Hữu Thỉnh rất đậm đà. Nhận ra hương ổi giống như một phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn còn vương vấn mà lâu nay con người hờ hững. Chính vì phát hiện ra điều gần gũi xung quanh mình nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng, bối rối. Cả sương thu cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình lan tỏa trên khắp nẻo đường thôn.
'Sương chầm chậm qua ngõ'
Có vẻ như mùa thu đã đến'
Một hình ảnh rất ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể có sự vận động – một vận động từ từ. Sương thu được nhân hóa, từ “chùng chình” diễn tả bước đi chậm rãi của mùa thu. Từ láy “chùng chình” còn gợi cảm xúc. Sương chậm chạp hay lòng người đang mơ màng, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”? Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” mùa thu đến một cách bất ngờ thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng hỏi: Hình như mùa thu đã đến? Tâm hồn thi sĩ cảm nhận sự chuyển động nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng yên ả, bâng khuâng như bước đi chậm rãi của mùa thu. Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cảm giác bỡ ngỡ ban đầu nhường chỗ cho những rung cảm sâu sắc trước không gian thu mênh mông.
'Sông chảy chậm rãi'
Chim bắt đầu bay vội vã'
Dòng sông tràn đầy nước nên trở nên “dềnh dàng”, nhẹ nhàng trôi như cố tình chậm lại, trong khi đàn chim vội vã hướng về phương nam… Cái “dềnh dàng” của dòng sông là khoảnh khắc hiếm hoi sau những đoạn đường gập ghềnh, vất vả và những cơn mưa rào mùa hè. Từ “được lúc” diễn tả sự hiếm hoi, lâu lắm rồi con sông mới được nghỉ ngơi thanh thản như vậy. Nhưng cơn gió lạnh lẽo đầu mùa khiến đàn chim phải vội vã bay về phương nam để tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng và vội vã) chứa đựng một triết lý: cuộc sống không bao giờ yên bình, sự sống luôn chuyển động, vì vậy con người cần chuẩn bị kỹ càng để theo kịp dòng đời. Không gian đất trời lại mở ra một tầng mới, với mùa thu thư thái, hữu tình và đầy thi vị.
'Có đám mây mùa hè
Nửa mình đã chuyển sang thu'
Câu thơ hình dung đám mây nhẹ nhàng, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan mềm mại của người thiếu nữ nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Có vẻ như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo như vậy. Câu thơ không chỉ tạo hình không gian mà còn diễn tả sự chuyển động của thời gian: mùa thu bắt đầu, hạ chưa hoàn toàn qua, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, như cả đất trời đang từ từ thay áo mới. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao trở thành ranh giới giữa mùa hạ và mùa thu. Từ “vắt” tạo hiệu quả lớn, khiến đám mây có khả năng nối liền hai mùa, giữa mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh. Từ khoảnh khắc giao mùa vô hình, tác giả đã biến thành hình ảnh cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn tín hiệu của mùa thu. Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác của tác giả tạo nên dấu ấn khó quên trong lòng độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh, ta càng yêu hơn mùa thu nồng hậu của quê nhà.
Hai bài thơ như hai bức tranh thiên nhiên tràn đầy cảm xúc. Với tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên thấm đẫm trong từng câu chữ, Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc cảm nhận về sự rộn ràng của mùa xuân và sự tĩnh lặng khi mùa thu đến. Nếu Thanh Hải làm sống dậy niềm đam mê và tình yêu quê hương, thì Hữu Thỉnh lại mang đến sự giản dị, mộc mạc, gợi cảm giác gần gũi và thân thuộc. Dù phong cách nghệ thuật của hai tác giả khác nhau, nhưng cả hai đều thể hiện tình yêu thiên nhiên nồng nàn và tâm hồn thi sĩ lạc quan, luôn say mê với vẻ đẹp của quê hương. Điều này đã được diễn tả thành công qua hai khổ thơ đầy ấn tượng.