HÀ NỘI
Sau khi đánh bại triều đại Tây Sơn, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên (kinh đô cũ Thăng Long) thành phủ Hoài Đức thuộc Tổng Trấn Bắc Thành. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831), vua lại bỏ Bắc Thành và 11 Trấn, thay vào đó bằng 29 Tỉnh. Tỉnh Hà Nội được thành lập bao gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức (của Tây Sơn) và ba phủ Ứng Hòa, Thường Tín, Lý Nhân thuộc Trấn Sơn Nam. Tên Hà Nội có nghĩa là thành phố nằm bên trong các con sông, vì tỉnh Hà Nội được bao bọc bởi sông Hồng và sông Đáy (theo tài liệu 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội của Tô Hoài).
Hình ảnh dưới đây là Cửa Bắc, hay còn gọi là Chính Bắc Môn, một trong năm cổng của thành Hà Nội thời kỳ nhà Nguyễn. Khi quân Pháp phá thành Hà Nội, họ đã giữ lại Cửa Bắc vì còn hai dấu vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng vào năm 1882, khi Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày nay, cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
BẮC GIANG
Bắc Giang đã thuộc bộ Võ Ninh từ thời vua Hùng dựng nước Văn Lang, sau đó được gọi là lộ Bắc Giang dưới triều đại Lý – Trần, phủ Bắc Hà dưới triều đại Lê, và đổi thành phủ Thiên Phúc vào năm 1822, rồi phủ Đa Phúc dưới triều Tự Đức. Mặc dù chưa có tài liệu xác thực, tên gọi Bắc Giang có thể mang ý nghĩa là vùng phía bắc sông.
Đây là một con đường tại thị xã Phủ Lạng Thương vào năm 1910. Nguồn ảnh: kienthuc.net.vn
BẮC KẠN
Bắc Kạn nằm ở vùng Đông Bắc của Việt Nam. Một bản sao của bài văn bia “Tam hải hồ sơn chí” bằng chữ Hán được khắc trên đá tại Bó Lù, bờ hồ Ba Bể, do Phan Đình Hoè, tác giả tỉnh Bắc Kạn, viết và ông Vi Văn Thượng khắc năm 1925: Chữ “Kạn” trong Bắc Kạn có bộ “tài gẩy” bên chữ “Can”, đọc theo âm Hán Việt là “cản”, mang ý nghĩa là “ngăn cản, bảo vệ, chống lại” (ở phía bắc).
Hình ảnh là một trang sách từ cuốn “Chải tinh kỷ hoa” viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày, nhóm dân tộc chiếm hơn 50% dân số tỉnh Bắc Kạn
BẮC NINH
Năm 1822, khu vực Bắc Ninh được hình thành từ một phần của xứ Kinh Bắc trong thời kỳ Hồng Bàng. Khi nước Văn Lang chia thành 15 bộ, bộ Vũ Ninh bao gồm phần lớn diện tích tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Tên gọi Bắc Ninh có thể xuất phát từ sự kết hợp của Kinh Bắc và Vũ Ninh.
Đoạn đường chính của thị xã Bắc Ninh trong những năm 1920, hiện nay là đường Ngô Gia Tự, thành phố Bắc Ninh. Ảnh tư liệu
CAO BẰNG
Cao Bằng xưa thuộc bộ Vũ Định thời Hùng Vương, về sau được ghi nhận là phần của đất Thái Nguyên dưới triều Lý. Năm 1467, nơi đây được gọi là phủ Bắc Bình, sau đổi thành phủ Cao Bình. Năm 1676, nhà Lê tái lập trấn Cao Bình từ tay nhà Mạc. Dưới triều Tây Sơn, tên gọi Cao Bình dần biến thành Cao Bằng và vẫn được sử dụng cho đến nay.
Thị xã Cao Bằng, hiện tại là Thành phố, vào năm 1935. Ảnh: tư liệu
ĐIỆN BIÊN
Điện Biên là vùng đất cổ xưa, với Điện Biên Phủ trước đây được gọi là Mường Thanh, tên gọi này có nguồn gốc từ tiếng Thái, có nghĩa là 'Xứ trời'. Vùng đất này được coi là thiêng liêng, nơi giao thoa giữa trời và đất. Năm 1841, vua Thiệu Trị chính thức đổi tên thành Phủ Điện Biên, trong đó 'Điện' chỉ vùng đất linh thiêng và 'Biên' biểu thị sự xa xôi, hẻo lánh.
Ảnh tư liệu về cầu Điện Biên
HÀ GIANG
Tên gọi Hà Giang có thể được hiểu là 'con sông nhỏ chảy vào sông lớn', cụ thể là Sông Miện đổ vào Sông Lô.
Cầu Yên Biên I bắc qua sông Lô, là di tích lâu đời nhất gắn liền với sự hình thành tỉnh Hà Giang từ năm 1891. Các bức ảnh cho thấy hai chiếc mố cầu, có thể được xây dựng vào đầu thế kỷ 20. Hiện tại, chỉ còn một chiếc mố cầu trên bờ Tây. Ảnh: tư liệu
HẢI DƯƠNG
Tỉnh Hải Dương được chính thức đặt tên từ năm 1469, với ý nghĩa: 'Hải' chỉ vùng duyên hải gần biển, còn 'Dương' có nghĩa là ánh sáng hoặc mặt trời. Vị trí của Hải Dương nằm ở phía đông của kinh thành Thăng Long, nơi mặt trời mọc. Do đó, Hải Dương có thể hiểu là 'ánh sáng từ biển Đông' hoặc 'ánh sáng từ miền duyên hải phía đông'. Nguyễn Trãi trong 'Dư địa chí' đã coi Hải Dương là trấn quan trọng, đóng vai trò phòng thủ phía đông cho kinh thành Thăng Long.
Thành Hải Dương - Thành Đông năm 1885, một trong bốn thành trì của Thăng Long tứ trấn. Ảnh: nguoikesu.com
HẢI PHÒNG
Cảng biển nổi tiếng với tên gọi 'thành phố Hoa phượng đỏ', Hải Phòng được thành lập vào năm 1888. Tên gọi Hải Phòng có thể xuất phát từ cụm từ 'Hải tần phòng thủ' của nữ tướng Lê Chân vào thế kỷ 1, hoặc từ tên gọi rút ngắn của cơ quan 'Hải Dương thương chính quan phòng' thời Tự Đức, hoặc từ 'ti sở nha Hải phòng sứ' hay đồn Hải Phòng do Bùi Viện thành lập năm 1871 dưới triều Tự Đức.
Chợ sắt dưới thời Pháp thuộc
HÀ NAM
Tỉnh Hà Nam được thành lập vào năm 1890, khi tỉnh Nam Định bị chia tách để tạo thành tỉnh Thái Bình và một phần phía bắc của Nam Định kết hợp với phần nam của Hà Nội để thành lập tỉnh Hà Nam. Tên gọi Hà Nam được ghép từ 'Hà Nội' và 'Nam Định'.
Bản đồ hành chính tỉnh Hà Nam năm 1907. Nguồn: Niên giám Thương mại và Hành chính Đông Dương
HOÀ BÌNH
Tỉnh Hòa Bình được thành lập năm 1886 dưới tên gọi tỉnh Mường theo nghị định của Kinh lược Bắc Kỳ. Tỉnh lỵ ban đầu tại thị trấn Chợ Bờ, do đó cũng được gọi là tỉnh Chợ Bờ. Cuối năm 1886, tỉnh lỵ chuyển về xã Phương Lâm và đổi tên thành tỉnh Phương Lâm vào năm 1888. Đến năm 1896, tỉnh lỵ được dời về xã Hòa Bình ở bờ trái sông Đà, và từ đó tỉnh được gọi là Hòa Bình. Tên gọi này vẫn được giữ đến ngày nay sau nhiều lần thay đổi.
Bản đồ tỉnh Chợ Bờ (trước đây là Hòa Bình) năm 1891. Ảnh: tài liệu lưu trữ
HƯNG YÊN
Tỉnh Hưng Yên được thành lập năm 1831, bao gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung thuộc trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Nam Định. Vùng đất Hưng Yên nổi tiếng từ thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh với Phố Hiến, nơi được dân gian ca ngợi qua câu “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Ảnh năm 169 của Hưng Yên - Đằng Ngoài (Bắc Việt Nam), xung quanh một ngôi chùa cổ. Nguồn: TS Nguyễn Khắc Hào/Báo Hưng Yên
LAI CHÂU
Tên gọi Lai Châu có nguồn gốc từ chữ “châu Lay”. Vào đầu thế kỷ X, các thủ lĩnh dân tộc Thái đã đặt tên cho vùng đất này là Mường Lay. Đến năm 1435, trong tác phẩm “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, khu vực này được ghi chép với tên là châu Lai, là phiên âm từ chữ Lay.
Ngã ba sông Đà trước ngày giải phóng Điện Biên Phủ. Ảnh: tài liệu lưu trữ
LẠNG SƠN
Lạng Sơn được vua Minh Mạng thành lập vào năm 1831, là một trong 13 tỉnh đầu tiên ở Bắc Kỳ. Tên gọi của tỉnh bắt nguồn từ danh xưng “xứ Lạng”.
Cầu Kỳ Cùng năm 1950. Nguồn ảnh: manhhai's photostrea, trích từ FB Dung Dang
LÀO CAI
Tên gọi Lào Cai xuất phát từ cách phát âm của người địa phương đối với chữ Lão Nhai, có nghĩa là Phố Cũ hoặc Chợ Cũ. Khu phố Bảo Thắng, do Lưu Vĩnh Phúc xây dựng tại thị xã Lào Cai ngày nay, cũng được gọi là Lảo Kay, và người Pháp phiên âm tên này thành Lao Kai hoặc Lao Kay.
Xe ô tô Lao Kay - Cha Pa (Sa Pa) từ năm 1920-1929. Hình ảnh ngôi nhà, vị trí của Công ty xưa, hiện nay là Trung tâm Thông tin và Xúc tiến Du lịch tỉnh Lào Cai (đối diện Sân Quần và Nhà thờ Sa Pa). Ảnh: Bảo tàng tỉnh Lào Cai
NAM ĐỊNH
Tên gọi Nam Định được hình thành vào năm 1822 khi triều Nguyễn đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định. Chữ ‘Nam’ có từ thời Lê, chỉ phía Nam, còn ‘Định’ có nghĩa là bình định, là từ được triều Nguyễn dùng để đặt tên cho nhiều vùng đất. Đến năm 1832, trấn Nam Định được đổi thành tỉnh Nam Định (bao gồm cả Thái Bình và một phần Hà Nam hiện nay). Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng, và một phần phía bắc Nam Định tách ra cùng một phần phía nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam.
Cột cờ Thành Nam, biểu trưng nổi bật của Nam Định. Ảnh tư liệu
NINH BÌNH
Ninh Bình, với ý nghĩa yên bình và tĩnh lặng, được đặt tên là đạo Ninh Bình từ năm 1822 và chính thức đổi thành tỉnh Ninh Bình vào năm 1831.
Bản đồ tỉnh Ninh Bình năm 1891
PHÚ THỌ
Tên Phú Thọ có nguồn gốc từ làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi, tỉnh Hưng Hóa, nơi thành lập thị xã Phú Thọ vào năm 1903. Sau đó, chính quyền Pháp đã chuyển tỉnh lỵ từ Hưng Hóa về thị xã Phú Thọ và đổi tên tỉnh thành Phú Thọ.
Đồn lính bên ngã ba sông Lô - sông Chảy tại thị trấn Phủ Đoan, phủ Đoan Hùng, Phú Thọ trong thời kỳ thuộc địa (nay thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ), ảnh chụp khoảng năm 1902 - 1905
QUẢNG NINH
Quảng Ninh là vùng đất có bề dày lịch sử. Tại khu vực Vịnh Hạ Long, các nhà khảo cổ đã phát hiện di tích của người tiền sử từ 3000 – 1500 năm trước Công Nguyên. Khi Nhà nước đầu tiên của người Việt được hình thành dưới thời Hùng Vương, khu vực này thuộc bộ Lục Hải, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Trong thời phong kiến, khu vực hiện nay của tỉnh Quảng Ninh từng có các tên gọi như Lục Châu, tô Đông Hải, tô Hải Đông, trấn An Bang, và tỉnh Quảng Yên. Sau đó, Quảng Yên được chia thành nhiều đơn vị, trong đó có Hải Ninh, và cuối cùng, Quảng Yên cùng với Hải Ninh và các đơn vị liên quan được hợp nhất thành tỉnh Quảng Ninh như hiện nay. Do đó, Quảng Ninh ngày nay gần như là phần nối tiếp của Quảng Yên cũ.
Quảng Ninh vào năm 1915. Ảnh tư liệu
SƠN LA
Tên gọi Sơn La xuất phát từ tên của phụ lưu Nậm La, một nhánh nhỏ của sông Đà. Trước năm 1479, Sơn La chủ yếu thuộc vương quốc Bồn Man và được chính thức sáp nhập vào Đại Việt vào năm 1749. Năm 1886, khu vực này được thành lập thành châu Sơn La thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hoá. Đến năm 1895, tỉnh Vạn Bú được thành lập với tỉnh lỵ tại Vạn Bú (hay Tạ Bú). Ngày 23 tháng 8 năm 1904, tỉnh này được đổi tên thành tỉnh Sơn La.
Thị xã Sơn La vào năm 1980. Ảnh tư liệu
THÁI BÌNH
Tỉnh Thái Bình có nguồn gốc từ phủ Thái Bình, được hình thành vào năm 1005 khi tên gọi Đằng Châu được đổi thành phủ Thái Bình. Vào ngày 21 tháng 3 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định tách phủ Kiến Xương từ tỉnh Nam Định và huyện Thần Khê từ tỉnh Hưng Yên để hợp nhất vào phủ Thái Bình, lập thành tỉnh Thái Bình. Sau đó, phủ Thái Bình được đổi tên thành Thái Ninh.
Cảnh một khu chợ ở Thái Bình vào năm 1945. Ảnh tư liệu
VÌNH PHÚC
Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập ngày 12 tháng 2 năm 1950 bằng cách hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên. Sau nhiều lần thay đổi, hiện nay Vĩnh Phúc bao gồm các khu vực của tỉnh Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên trước đây. Trong thời kỳ Pháp chiếm đóng miền Bắc (1946-1954), tỉnh này từng được gọi là tỉnh Vĩnh Phúc Yên.
Ảnh cũ của thị xã Tam Đảo
YÊN BÁI
Tên Yên Bái được đặt theo tên làng Yên Bái, nơi mà vào ngày 11 tháng 4 năm 1900, thực dân Pháp đã lập tỉnh Yên Bái, bao gồm phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn và Văn Bàn, với tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Trong giai đoạn từ 1910 đến 1920, tỉnh Yên Bái tiếp nhận thêm châu Lục Yên từ tỉnh Tuyên Quang và châu Than Uyên từ tỉnh Lai Châu. Kể từ năm 1945, tỉnh Yên Bái đã trải qua nhiều lần điều chỉnh tách nhập.
Góc nhìn thị xã Yên Bái năm 1906
TUYÊN QUANG
Tuyên Quang có nguồn gốc tên gọi từ sông Tuyên Quang, nay là sông Lô. Theo “An Nam chí lược” của Lê Tắc viết năm 1335, sông Tuyên Quang chảy từ vùng Đặc Ma, kết hợp với các sông Quy Hóa và Đà, tạo nên một ngã ba sông. Tuyên Quang chính thức trở thành tỉnh dưới triều Minh Mạng.
Ảnh chụp tỉnh lỵ Tuyên Quang vào những năm 1920, hiện nay là thành phố Tuyên Quang. Nguồn ảnh: kienthuc.net.vn
THÁI NGUYÊN
Tên Thái Nguyên có nguồn gốc từ Hán Việt, với ‘Thái’ nghĩa là rộng lớn và ‘Nguyên’ là cánh đồng bằng phẳng. Được thành lập năm 1831, tỉnh Thái Nguyên đã được chia thành hai tỉnh vào năm 1890, bao gồm Thái Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, chính quyền sáp nhập hai tỉnh thành Bắc Thái, nhưng năm 1996 lại chia thành Thái Nguyên và Bắc Kạn. Tỉnh Thái Nguyên hiện tại gần như là toàn bộ tỉnh Bắc Thái trước đây.
Hình ảnh khu vực trung tâm thành phố Thái Nguyên vào những năm 1985-1990
ĐÀ NẴNG
Tên gọi Đà Nẵng có thể xuất phát từ từ Chăm cổ ‘Đaknan’, trong đó ‘Đak’ có nghĩa là nước, và ‘nan’ hay ‘nưn’ chỉ sự rộng lớn, ‘Đaknan’ ám chỉ vùng đất rộng lớn bên cửa sông Hàn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tên ‘Đà Nẵng’ có thể nguồn gốc từ ngôn ngữ Môn-Khmer, ‘Đakdơng’ – ‘Đà dơng’, có nghĩa là sông nguồn.
Chợ Cồn vào những năm 1985
QUẢNG NAM
Tên gọi Quảng Nam mang ý nghĩa là vùng đất mở rộng về phía nam. Tại miền Trung, nhiều địa danh có chứa yếu tố ‘quảng’, điều này phản ánh mong muốn về sự rộng lớn và bao la của vùng đất hẹp này, vì từ ‘quảng’ biểu thị ý nghĩa như vậy.
Ảnh xưa về Hội An qua ống kính của Vĩnh Tân
THỪA THIÊN HUẾ
Thừa Thiên Huế từng là phủ Phú Xuân dưới triều đại Tây Sơn. Khi vua Gia Long phân chia đất nước thành 23 trấn và 4 dinh, khu vực hiện nay là Thừa Thiên Huế thuộc dinh Quảng Đức. Năm 1822, vua Minh Mạng đổi tên dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên. Từ năm 1831-1832, vua Minh Mạng đã tổ chức lại đất nước thành 31 đơn vị hành chính, trong đó có 30 tỉnh và 1 phủ là Thừa Thiên. Từ đó đến nay, tên gọi và địa giới hành chính của tỉnh đã thay đổi qua các thời kỳ, và hiện tại ổn định với tên gọi Thừa Thiên Huế từ năm 1989.
Toàn cảnh Hoàng thành Huế năm 1932 với trục thần đạo nổi bật trong bức ảnh. Ảnh: Aavh.org
QUẢNG BÌNH
Quảng Bình, tên gọi được Chúa Nguyễn Hoàng đặt vào năm 1558, từng được biết đến với các tên như Bố Chính, Tân Bình, Lâm Bình, Tiên Bình, và Tây Bình. Thời Lê Trung Hưng, tên gọi là Tiên Bình. Đến năm 1604, khu vực này chính thức mang tên tỉnh Quảng Bình, với ‘Quảng’ mang ý nghĩa rộng lớn.
Hình ảnh Quảng Bình Quan xưa
QUẢNG TRỊ
Quảng Trị đã tồn tại dưới tên gọi Cựu Dinh Quảng Trị trong trấn Thuận Hoá suốt gần 300 năm. Khi Gia Long lên ngôi năm 1802, ông đã đổi tên Cựu Dinh thành dinh Quảng Trị. Năm 1827, khu vực này trở thành trấn Quảng Trị, và đến năm 1832, trấn Quảng Trị được nâng cấp thành tỉnh Quảng Trị.
Thành cổ Quảng Trị năm 1967
NGHỆ AN
Nghệ An, tên gọi xuất hiện từ năm 1030 dưới triều đại nhà Lý, khi đó được gọi là Nghệ An châu trại. Cùng với Hà Tĩnh, khu vực này thuộc Hoan Châu thời Bắc thuộc. Vào triều vua Lê Thánh Tông, tên gọi được đổi thành xứ Nghệ và sau đó thành trấn Nghệ An. Đến năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành hai tỉnh: Nghệ An và Hà Tĩnh.
Đền Hồng Sơn tại Nghệ An trong quá khứ
HÀ TĨNH
Vào năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, tỉnh Hà Tĩnh bị bãi bỏ và được sáp nhập vào Nghệ An. Lúc đó, phủ Đức Thọ được chuyển vào Nghệ An, và phủ Hà Thanh được lập thành đạo Hà Tĩnh. Đến năm 1875, Hà Tĩnh được khôi phục thành tỉnh, dời về xã Trung Tiết (nay là thành phố Hà Tĩnh) và được cải tạo lại.
Cổng Thành Hà Tĩnh xưa. Ảnh tư liệu
THANH HÓA
Thanh Hóa, nằm ở vị trí giao thoa giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam, là tỉnh ít thay đổi về hành chính nhất trong cả nước. Thời Nhà Đinh và Tiền Lê, tỉnh này được gọi là đạo Ái Châu. Trong thời Nhà Lý, khu vực này được biết đến với tên trại Ái Châu, và vào năm 1009, được đổi tên thành Phủ Thanh Hóa. Đến năm 1469, tên gọi được đổi thành Thừa Tuyên Thanh Hoa, và từ đó tên Thanh Hoa được sử dụng. Năm 1802, khu vực này trở thành trấn Thanh Hóa, do trùng tên với một phi tần của vua. Năm 1831, trấn được nâng cấp thành tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa), và đến năm 1841, tên chính thức trở lại là tỉnh Thanh Hóa cho đến hiện tại.
Rạp Hát Tống Duy Tân tại Thanh Hóa. Ảnh: BEAT 36 THANH HÓA
QUẢNG NGÃI
Quảng Ngãi có thể mang ý nghĩa là dải đất đầy nghĩa tình. Vào năm 1602, khi Trấn Quảng Nam được đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa thuộc dinh Quảng Nam cũng được đổi tên thành phủ Quảng Nghĩa. Đến năm 1807, xã Cù Mông (sau đổi tên thành Chánh Mông rồi Chánh Lộ) được chọn làm địa điểm xây dựng tỉnh Quảng Nghĩa, và tỉnh này chính thức được thành lập vào năm 1832.
Cảnh một cây xăng tại thị xã Quảng Ngãi, Tịnh Khê, Sơn Tịnh trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến 1971. Ảnh: vnvetlester
BÌNH ĐỊNH
Bình Định được vua Nguyễn Ánh đặt tên vào năm 1799 sau khi đánh bại thành Quy Nhơn. Vua Nguyễn Ánh đã chọn tên Bình Định để thể hiện sự chiến thắng của mình, như một cách khẳng định quyền lực và chứng tỏ đã chinh phục được đất Tây Sơn, theo cách diễn đạt của các vua triều Nguyễn trước đó.
Cảnh toàn diện Quy Nhơn năm 1932. Ảnh tư liệu
PHÚ YÊN
Phú Yên từng là một phần của Chăm Pa với tên gọi Ayaru cho đến năm 1471. Khi vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy quân đội tiến vào Chăm Pa và chiếm đóng từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên), vùng đất Ayaru đã trở thành điểm nóng tranh chấp giữa người Việt và người Chăm. Đến năm 1611, Nguyễn Hoàng chỉ huy tấn công vào Ayaru, Chăm Pa bị đánh bại, và vùng đất này được sáp nhập vào Đàng Trong với tên gọi Phú Yên, tượng trưng cho một miền đất hy vọng về sự thịnh vượng và bình yên.
Hình ảnh Tuy Hoà - Phú Yên trước năm 1975. Nguồn: tuyhoaplus.com
KHÁNH HOÀ
Khánh Hòa được hình thành vào năm 1831 khi trấn Bình Hòa được tách ra và đổi tên thành phủ Ninh Hòa. Đây là phần đất trước đây thuộc xứ Kauthara của vương quốc Chăm Pa. Vào năm 1653, lợi dụng sự quấy rối của vua Chiêm Thành là Bà Tấm đối với dân Việt ở Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cử quan cai cơ Hùng Lộc tiến quân chiếm lĩnh từ Phan Rang đến Phú Yên. Trong tiếng Hán, chữ “Khánh” thuộc bộ tâm, gắn với ý nghĩa về tâm trạng và cảm xúc, nghĩa gốc là “mừng” và sau đó chuyển thành “chúc mừng”. Chữ “Hòa” mang ý nghĩa về sự hòa hợp và đồng thuận.
Cửa sông Cái (sông Nha Trang) và làng chài, với dãy núi Cô Tiên ở phía xa. Nguồn: website chuyenxua.net
NINH THUẬN
Ninh Thuận lần đầu tiên được gọi là phủ Ninh Thuận vào năm 1832 dưới triều Minh Mạng, và duy trì tên gọi này cho đến năm 1888. Sau đó, tỉnh Phan Rang được thành lập, cũng mang tên Ninh Thuận. Từ năm 1945, tỉnh này đã trải qua nhiều lần sáp nhập và tách ra, và hiện tại lại được gọi bằng tên cũ là Ninh Thuận.
Tháp Chàm, Ninh Thuận năm 1980. Ảnh: Nguyễn Bá Mậu - ArtCorner.vn
BÌNH THUẬN
Từ năm 1697, Bình Thuận được thành lập theo chỉ đạo của chúa Nguyễn, bao gồm hai huyện An Phước và Hòa Đa. Tên gọi Bình Thuận phản ánh nỗ lực khai phá và ổn định khu vực, với ‘Bình’ tượng trưng cho việc chinh phục và làm yên vùng đất, còn ‘Thuận’ biểu thị sự hòa hợp giữa các cộng đồng dân cư. Đến năm 1827, dưới triều đại vua Minh Mạng, Bình Thuận chính thức được công nhận là một tỉnh.
Bản đồ địa chính TP. Phan Thiết vào những năm 1932. Ảnh: Phanthietvn.com
SÀI GÒN
Thành phố Hồ Chí Minh, dù hiện nay đã được biết đến nhiều hơn với tên gọi mới, vẫn thường được gọi là Sài Gòn. Nguồn gốc của tên Sài Gòn có thể bắt nguồn từ Brai Nagara, một tên gọi cổ trong khu vực. Vào thế kỷ 18, khu vực Gia Định có các địa danh như Rai-gon thong (Sài Gòn thượng) và Rai-gon ha (Sài Gòn hạ). Tên Rai-gon có thể được phiên âm từ Brai Nagara hay Prey Nokor, một tên địa phương không có ý nghĩa trong tiếng Việt nhưng có thể có nguồn gốc từ tiếng dân tộc khác.
Chợ Bến Thành thuở xưa. Ảnh: tư liệu
ĐỒNG NAI
Tên gọi Đồng Nai vẫn còn nhiều bí ẩn. Theo dân gian, tên này có thể xuất phát từ sự phong phú của cánh đồng với nhiều nai. Một giả thuyết khác cho rằng ‘Đồng’ là dạng biến âm của từ ‘Đờng’ trong ‘Đạ Đờng’ (Sông Cái) của người Mạ. Còn nhiều địa danh khác cũng bắt nguồn từ chữ ‘Đồng’ như Đồng Tranh, Đồng Môn, Đồng Tràm, Đồng Trường… Vào thế kỷ 17, khu vực gọi là Đồng Nai đã ám chỉ một vùng rộng lớn của Nam Bộ.
Ảnh TP. Biên Hòa chụp ngày 15-1-1932. Nguồn: albindenis.free.frSite_escadrilleescadrille002_Indochine.htm
BÌNH DƯƠNG
Tên gọi Bình Dương được gợi nhớ từ địa danh cổ ở Trung Quốc, nơi vua Nghiêu từng cai trị. Theo truyền thuyết, vua Nghiêu sống giản dị, chia sẻ công việc và cuộc sống với nhân dân, và vì vậy thời kỳ của ông được biết đến với sự hòa bình và thịnh vượng. Bình Dương hiện nay là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa. Tên gọi Thủ Dầu Một được cho là có nguồn gốc từ tiếng Campuchia, nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây là từ kết hợp của tiếng Việt, với ‘Thủ’ (giữ) và ‘Dầu Một’ (tên đất), liên quan đến việc canh giữ ở khu vực có cây dầu lớn gọi là ‘cây dầu một’.
Chợ của thị trấn Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ của tỉnh Thủ Dầu Một thời thuộc địa, nay là thành phố Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương
BÌNH PHƯỚC
Tỉnh Bình Phước ra đời từ ngày 30/1/1971, khi Trung ương Cục miền Nam quyết định hợp nhất hai tỉnh Bình Long và Phước Long thành một đơn vị hành chính mới dưới sự quản lý trực tiếp của Trung ương Cục.
Trạm xăng Shell tại quận An Lộc, tỉnh Bình Long, nay là thị xã Bình Long thuộc tỉnh Bình Phước, năm 1963. Nguồn: Smugmug.com
BÀ RỊA VŨNG TÀU
Bà Rịa – Vũng Tàu là sự kết hợp của hai địa danh: Bà Rịa và Vũng Tàu. Tên gọi Bà Rịa có thể bắt nguồn từ tên nữ thần trấn sóng Chăm Po Riyak hoặc từ tên của bà Nguyễn Thị Rịa, một người Phú Yên đã di cư vào Nam và có công lớn trong việc khai khẩn vùng Đồng Xoài khi mới 15 tuổi.
Vũng Tàu chính thức được công nhận từ năm 1895. Tuy nhiên, trong bộ sách Phủ biên tạp lục năm 1776 của Lê Quý Đôn đã nhắc đến tên Vũng Tàu: “Đầu địa giới Gia Định là xứ Vũng Tàu, nơi hải đảo có dân cư”. Vũng Tàu lúc đó gồm ba làng Thắng Nhất, Thắng Nhị, và Thắng Tam, do chúa Nguyễn Phúc Tần thành lập năm 1658, nổi bật với ba mặt giáp biển, lý tưởng cho tàu bè trú ẩn trước khi vào Gia Định.
Bãi Trước Vũng Tàu đầu thế kỷ XX
TÂY NINH
Tây Ninh xưa kia thuộc vùng đất Thủy Chân Lạp, với tên gọi Romdum Ray, nghĩa là “Chuồng Voi” do khu vực này đầy rừng rậm và động vật hoang dã như voi, cọp, beo, và rắn. Tên gọi Tây Ninh hiện nay có ý nghĩa là sự yên ổn về chính trị tại vùng phía tây.
Cổng thành Săng-đá vào năm 1908, hiện nay là trụ sở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh
ĐẮK NÔNG
Tên gọi Đắk Nông bắt nguồn từ tiếng M’Nông, có nghĩa là Nước hoặc đất của người M’Nông. Đắk Nông nằm ở cửa ngõ phía tây nam của Tây Nguyên, giáp Đắk Lắk ở phía bắc và đông bắc, Lâm Đồng ở phía đông và đông nam, Bình Phước ở phía nam, và Vương quốc Campuchia ở phía tây.
Toàn cảnh vòng xoay Hồ Đại La tại Thị xã Gia Nghĩa
ĐẮK LẮK
Tên gọi Đắk Lắk bắt nguồn từ tiếng M’Nông, có nghĩa là “hồ Lắk”, với từ dak có nghĩa là “nước” hay “hồ”. Đắk Lắk là nơi giữ gìn và phát triển truyền thống văn hóa Cồng chiêng của Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Khu trang trại giáo dục và đào tạo người Ê Đê tại Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk vào năm 1930. Đây là nơi đào tạo khoảng 500 người Ê Đê để trở thành công nhân lành nghề phục vụ người Pháp tại Tây Nguyên.
GIA LAI
Tên gọi Gia Lai xuất phát từ chữ Jarai, tên của một tộc người bản địa đông đảo nhất trong tỉnh. Từ Jarai còn được sử dụng trong tiếng của người Eđê, Bana, Lào, Thái Lan và Campuchia để chỉ vùng đất này, có nghĩa là “vùng đất của người Jarai”. Đây có thể là chỉ vùng đất thuộc tiểu quốc Jarai xưa, bao gồm Thủy Xá và Hỏa Xá.
Rạp chiếu phim Thanh Bình tại Pleiku, Gia Lai vào năm 1969
KONTUM
Trong tiếng Ba Na, Kon có nghĩa là làng, còn Tum có nghĩa là hồ, nên tên gọi Kon Tum ám chỉ một ngôi làng gần hồ nước bên dòng sông Đăk Bla, hiện nay là làng Kon Kơ Nâm thuộc thành phố Kon Tum.
Trường La-san Kim Phước tại Kon Tum trước năm 1975
LÂM ĐỒNG
Lâm Đồng: tên gọi đơn giản là kết hợp giữa Rừng và Đồng (ruộng).
Tỉnh Lâm Đồng được hình thành từ sự kết hợp của tỉnh Lâm Viên (còn gọi là Langbiang hoặc Lâm Biên) và tỉnh Đồng Nai Thượng. Năm 1958, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành Lâm Đồng.
Hồ Xuân Hương vào cuối thập niên 1920. Ảnh: Raymond Chagneau
LONG AN
Long An có tên gọi với ý nghĩa: An tức là bình yên, an toàn; Long biểu thị sự đầy đủ, phát đạt, lớn mạnh và tốt đẹp.
Quốc lộ 4 tại Bến Lức, Long An vào các năm 1967 – 1968. Ảnh: Photo by Dave Paine
TIỀN GIANG
Tên gọi Tiền Giang bắt nguồn từ sông Tiền, vùng đất này đã được người Việt, chủ yếu từ khu vực Ngũ Quảng, khai phá và sinh sống từ thế kỷ XVII. Sau nhiều lần thay đổi tên và địa giới, năm 1976, tỉnh Tiền Giang được chính thức thành lập từ sự hợp nhất của tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và thành phố Mỹ Tho.
Ga Mỹ Tho, Tiền Giang đầu thế kỷ 20
Vĩnh Long
Tên gọi Vĩnh Long trong Hán Việt có thể hiểu là “sự vững bền (long) mãi mãi (vĩnh)”. Trước đây, Vĩnh Long từng được gọi là Vãng Long, nhưng từ “vãng” có nghĩa là “đã qua, đi qua” không phù hợp với ý nghĩa của “vĩnh”. Việc chuyển âm có thể là để dễ phát âm hơn, giống như sự chuyển đổi từ inh sang ang trong nhiều từ.
Ảnh Vĩnh Long năm 1967-1968, cho thấy vị trí phi trường Vĩnh Long ngày xưa
Cần Thơ
Cần Thơ, khi đối chiếu với tên gốc Khmer Prek Rusey (sông tre), có vẻ không liên quan về âm học. Tuy nhiên, trước đây có một con rạch mang tên loài cá Khmer gọi là kìntho (cá sặt rằn), sau đó âm biến thành Cần Thơ. Tỉnh Cần Thơ được thành lập từ ngày 1/1/1900 dưới thời Pháp, và đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và địa lý.
Cầu Cái Răng, Cần Thơ vào khoảng năm 1930
Đồng Tháp
Tên gọi Đồng Tháp bắt nguồn từ Đồng Tháp Mười, được ghi chép là “đồng Tháp Mười” (không viết hoa chữ “đồng”), có nghĩa là “tháp thứ mười” hoặc “tháp 10 tầng”. Có nhiều cách giải thích về ý nghĩa này. Một số người cho rằng địa danh Tháp Mười đã được hình thành qua các giai đoạn: từ Tháp Mười -> gò Tháp Mười (hay Gò Tháp) -> đồng Tháp Mười -> vùng Đồng Tháp Mười -> cuối cùng là Đồng Tháp.
Trường nam sinh ở Sa Đéc, Đồng Tháp vào khoảng năm 1920. Ảnh: Ecoles Des Garcons
Bến Tre
Theo cuốn “Monographie De La Province De Bến Tre” của tác giả Ménard xuất bản năm 1903, Bến Tre trước đây được người Khơme gọi là Xứ Tre, vì khu vực này có nhiều giồng tre. Sau đó, người dân đã lập chợ buôn bán và gọi là chợ Bến Tre, tên gọi này bắt nguồn từ “bến xứ tre”.
Chợ Trúc Giang, Bến Tre trước năm 1975
An Giang
Trước đây, An Giang thuộc vùng Tầm Phong Long. Sau khi nước Chân Lạp dâng cho chúa Nguyễn, vua Gia Long đã tổ chức khai hoang và đưa dân đến định cư, biến nơi đây thành một phần của Nam Kỳ lục tỉnh thời Nguyễn. Tên gọi An Giang có nghĩa là dòng sông bình yên, nơi có thể sống ổn định lâu dài, khuyến khích việc di dân và lập làng mới.
Toàn cảnh Châu Đốc nhìn từ trên cao ngày xưa
Kiên Giang
Tỉnh Kiên Giang được thành lập vào năm 1975, phần lớn nằm trên vùng đất của trấn Hà Tiên cũ, nơi mà Mạc Cửu đã khai phá từ thế kỷ XVII. Tên Kiên Giang có thể bắt nguồn từ tên một con sông ở Rạch Giá, cụ thể là sông Kiên.
Hình ảnh lịch sử của Kiên Giang. Nguồn: Mẫn Nhi - thoixua.vn
HẬU GIANG
Tên gọi Hậu Giang bắt nguồn từ sông Hậu. Tỉnh Hậu Giang đã từng tồn tại từ năm 1976, nhưng vào năm 1991, tỉnh này bị giải thể và chia thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Đến năm 2004, tỉnh Cần Thơ được nâng cấp thành thành phố trực thuộc trung ương, và tỉnh Hậu Giang hiện nay được tái lập.
Cổng chào tỉnh Hậu Giang, nằm ở thị trấn Cái Tắc. Ảnh: wikipedia
BẠC LIÊU
Tên Bạc Liêu có nguồn gốc từ tiếng Triều Châu “Pô Léo”, mang ý nghĩa là một xóm nghèo với nghề chính là đánh cá và đi biển. Một số ý kiến khác cho rằng “Pô” có nghĩa là “bót” hay “đồn”, và “Liêu” có nghĩa là “Lào” theo tiếng Khmer, vì trước đây khu vực này từng có một đồn binh của người Lào. Một giả thuyết khác là tên Bạc Liêu có thể bắt nguồn từ tiếng Khmer “Po Loenh”, có nghĩa là cây đa cao.
Bến xe đò Bạc Liêu. Ảnh: Dân Trí
TRÀ VINH
Trà Vinh, tên gốc Khmer là Tra Vang, có thể bắt nguồn từ từ “prha trapenh” có nghĩa là ao, ao Phật hoặc ao thiêng liêng. Tương truyền rằng ngày xưa, người ta đã tìm thấy tượng Phật dưới ao ở vùng này. Vào thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là một phủ thuộc huyện của phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long, được thành lập vào năm 1832.
Trà Vinh tháng 4 năm 1962. Ảnh: Barry MacDonnell - Nguồn: https://mythuatcongnghiepachau.edu.vn/hinh-anh-tra-vinh/
SÓC TRĂNG
Sóc Trăng là tên biến thể của Sốc Trăng, được phát âm từ tiếng Khmer “Srock Khléang”. Trong đó, Srock có nghĩa là xứ, còn Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Trước đây, tên này được viết là Sốc Kha Lăng và sau đó biến thành Sốc Trăng. Vào thời Minh Mạng, tên gọi đã được đổi thành Nguyệt Giang, nghĩa là sông trăng (trong đó “sốc” chuyển thành “sông”, và “trăng” là “nguyệt”).
Đường Mậu Thân xưa. Ảnh: Dân Trí
CÀ MAU
Cà Mau, trước đây viết là Cà-mâu, được đặt tên theo cách gọi của người Khmer là “Tưk Kha-mau”, có nghĩa là nước đen. Đây là do lá tràm từ các khu rừng tràm U Minh rụng xuống làm nước có màu đen. Cà Mau là vùng đất ngập nước với nhiều đầm lầy và bụi lác mọc hoang dã. Từ xưa đã có câu ca dao mô tả: “Cà Mau là xứ quê mùa / Muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu”.
Cầu Quay Cà Mau vào những năm 1940 (hiện tại thuộc đoạn của Công ty Cổ phần Cấp nước Cà Mau). Ảnh: tư liệu lịch sử
Hiêu Minh Tran
Nguồn: Tổng hợp