Khám phá sâu hơn vào tâm trạng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét qua 16 đoạn hội thoại trong trích đoạn Tình yêu và thù hận (trích bi kịch Rỏ-mê-ô và Giu-li-ét cúa
BÀI LÀM
Từ lâu, trong đời sống văn học nhân loại, mối tình Rô -mê-ô và Giu-li-ét trong vở bi kịch cùng tên của đại văn hào Sếch-xpia đã trở thành biểu tượng cho tình yêu chung thủy, mãnh liệt. Mặc dù bi kịch kết thúc, cả hai đều chết, nhưng tình yêu của họ đã chiến thắng, thù hận được xóa bỏ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn của hổi thứ hai đã bắt đầu hé mở về một sức mạnh tình yêu vượt lên thừ hận.
Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616) là một nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại thời kì Phục hưng, thời kì của chú nghĩa nhân văn, kết tinh khát vọng tự giải phóng cùa con người khỏi những xiềng xích phong kiến và chù nghĩa khổ hạnh của Giáo hội thời trung cố. Với một tài năng xuất chúng, Sếch-xpia đã để lại 37 vở kịch mà phần lớn đều trở thành kiệt tác trong kho tàng văn học nhân loại. Từ những điển hình nghệ thuật sinh động, ông tái hiện trung thành hiện thực xã hội nước Anh đương thời; phơi bày tội ác phong kiến với những mối hận thù truyền kiếp, những quan niệm luân lí và lễ giáo khắc nghiệt. Đổng thời cũng chỉ ra bộ mặt xảo trá của chủ nghĩa cá nhân tư sản thời kì đầu. Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của khát vọng tự do, của lòng nhân ái bao la, niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và sức vươn dậy để khẳng định cuộc sống của con người.
Rô-mê-ô vù Giu-li-ét là một trong số những vở kịch nổi tiếng nhất của Sếch- xpia. Dựa vào câu chuyện về món nợ máu truyền kiếp của haị dòng họ Môn-ta-ghiu yà Ca-piu-lét xảy ra thời trung cổ, tại thành phố Vê-rô-na (I-ta-li-a), Sếch-xpia đã xây dựng thành một bi kịch tình yêu và cho ra mắt công chúng lẩn đầu tiên vào năm 1595. Từ bấy đến nay, vở kịch dã đực dịch, được chuyển thể và được công diễn ở hầu khắp các nước trên thế giới, vở bi kịch dựa trên xung đột giữa con người với khát vọng yêu dương mãnh liệt và hoàn cảnh thù địch vây hãm. Vượt lên tất cả, Rô- mê-ô và Giu-li-ét đã đến với nhau: Mối tình của họ khẳng định sức sống, sức vươn dậy vượt lên trên mọi hoàn cảnh trói buộc con người. Mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo xã hội phong kiến là mối trường thụ địch với tình người, với chú nghĩa nhân văn.
Trong cuộc gặp gỡ kì duyên tại buổi dạ hội, tiếng sét ái tình đã đưa bước chân Rô-mê-ô quay trở lại, vượt tường vào vườn nhà Giu-li-ét. Vầng trăng huyền diệu, lãng mạn đã được nghe tiếng nói yêu thương cháy bỏng thốt ra từ hai con tim của hai người tuổi trẻ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn 'Tình yêu và thù hận' chính là lời cùa tình yêu say đắm, lãng mạn đã đưa Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt lên trên hiện thực nghiệt nga của những toan tính, thù hận.
Rô-mê-ô và Giu-li-ét không đối thoại với nhau ngay từ đầu vì lúc này họ chưa nhìn thấy nhau, đúng hơn là chỉ có Rô-mê-ô nhìn thấv Giu-li-ét. Chán' khuất trong tán lá của khu vườn nhìn lên ban công, thấy Giu-li-ét lộng lẫy ngời lên giữa trăng sao. Chàng độc thoại mà như là đối thoại bằng những lời yêu thương có cánh. Giu-li- ét không nhìn thấy Ró-mê-ô dưới tán lá khu vườn nhưng có một chàng Rô-mê-ô hiển hiện trong tâm trí nàng cùng với hận thù giữa hai dòng họ khiến trái tim nàng thổn thức mà như có ai đó bóp nghẹt. Nàng nói với mình mà như nói cùng Rô-mê-ô. Từ lời thoại thứ bảy trở đi, ngôn từ của Rô-mê-ô và Giu-li-ét mới chuyên sang tình thế đối thoại. Sáu lời thoại đầu tiên thực chất là những lời độc thoại nội tâm nhưng được thốt lên thành tiếng, nói khe khẽ, nói một mình, chí để mình nghe.
Trong toàn bộ đoạn trích, Rô-mê-ô có tất cả 8 lời thoại nhưng quan trọng hơn cả là lời thoại đầu tiên cũng là lời thoại dài nhất. Tuy đây chỉ là lời độc thoại nội tâm nhưng dưới ngòi bút nghệ thuật của Sếch-xpia, trong độc thoại dường nhơ vẫn có đối thoại, đảm bảo tính sinh động của kịch. Rô-mê-ô lúc thì như nói với Giu-li-ét vừa xuất hiện ở cửa sổ (Vầng dương đẹp rươi ơi...), lúc thì như đang đối thoại với chính mình (nàng; đang nói kìa...). Đầu tiên, khi thấy Giu-li-ét xuất hiện, Rô-mê-ô choáng ngợp trước nhan sắc tuyệt vời của nàng. Lúc này đang là đêm khuya, một đêm trăng sáng (dạ hội vừa kết thúc, Rô-mê-ô cùng bạn bè ra về nhưng chàng quay lại ngay, trèo tường vào vườn). Trong khung cảng ấy, Rô-mê-ô dễ so sánh người đẹp với chị Hằng; nhưng dưới con mắt của chàng, vầng tráng bì sao được với Giu-li-ét. nhà văn đã để cho chàng so sánh người đẹp với mặt trời mọc lúc rạng đỏng khiến mặt trăng thành héo hon. nhợt nhạt. Lời chí dẫn cho biết Giu-li-ét đã xuất hiện trên cửa sổ. Thế nhưng Ró-mê-ô vẫn nói : 'Vầng dương đẹp tươi ơi, hãy mọc lên đi...'. Cũng như vào lúc bình minh, vầng thái dương từ từ mọc lên ở chân trời sau những tia sáng báo hiệu đầu tiên, Giu-li-ét thoáng xuất hiện ở cửa sổ rồi, nhưng nàng sẽ hiên ra rực rỡ hơn.
Từ hình ảnh bao quát của Giu-li-ét, Sếch-xpia để cho mạch suy nghĩ của Rô- mê-ô tâp trung vào đôi mắt đẹp của nàng một cách khéo léo bằng cách chuyển dấn: 'Nàng nhìn kìa, miệng nàng có nói gì dâu... Đôi mắt nàng lên tiếng', ánh mắt lấp lánh khiến Rô-mê-ô ngỡ là đôi môi mấp máy! Hợp lí lắm. Trong khung cảnh đêm trăng. Rô-mê-ô so sánh đôi mắt nàng như hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời. Nhưng đôi mắt nàng chỉ đẹp như hai ngôi sao thôi ư, dù đó là hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời? Qua tâm hồn say đắm của chàng, chẳng ngôi sao nàọ có thể bì được với đổi mắt đẹp kia ! Sếch-xpia để cho nhân vật cùa ông đặt ra may giả định: Sao xuống nằm dưới đổi lông mày kia ư ?... Đôi mắt nàng lên thay cho sao ư?... Một cách hết sức tự nhiên, giả định thứ nhất hướng mạch suy nghĩ cùa Rổ-mô-ô chuyển sang ca ngơi đôi gò má rực rỡ cùa nàng tưởng như lúc nào khổng biết, dân đến ý cuối cùng: 'Kìa, nàng tì má lên bàn tay ...'
Lời thoại đầu tiên đã thể hiện tầm say đắm của Rô-mê-ô trước nhan sắc người đẹp. Mạch suy nghĩ của chàng diễn ra theo trình tự hợp lí và mối liên tưởng, so sánh của chàng phù hợp với khung cảnh lúc bấy giờ.
Tâm trạng Rô-mê-ô khá đơn giản. Ta chỉ bắt gặp ở chàng tình yêu say đắm không chút đắn đo. Điều đó bộc lộ ngay từ lời thoại thứ nhất. Lời thoại thứ năm (nói Riêng - Mình cư im lặng hay là lên tiếng nhỉ”. Chẳng phải là dấu hiệu băn khoăn của chàng khi biết được nỗi lòng Giu-li-ét (lời thoại 4). Chàng có thể trả lời ngay, trả lời dứt khoát. Tâm trạng Giu-li-ét diễn biến phức tạp hơn. Vừa gặp Rô-mê-ô tại buổi dạ hội, bây giờ về phòng, đứng bên cửa số nhìn ra vườn trong đêm thanh vắng, tướng không có ai, nàng đã thốt lên thành tiếng nỗi niềm riêng. Những lời trực tiếp thổ lộ tình yêu mãnh liệt không chút che giấu, không chút ngượng ngùng (các lời thoại 4, 6). Qua mấy lời thoại ấy, kể cả hai tiếng 'ôi chao' (lời thoại 2), ta thấy Giu-li-ét tuy chưa đầy 15 tuổi mà rất chín chắn, cảm nhận được mối tình của mình có thề sẽ vấp phải trở ngại là thù hận giữa hai dòng họ.
Thông thường, phụ nữ thường không chủ động thổ lộ tình cảm với người họ yêu. Tuy nhiên, Giu-li-ét lại làm điều đó một cách vô tình. Khi nhận ra có người đã nghe được lòng mình, ban đầu nàng có thể nghĩ người đứng trong bóng tối đó là người xa lạ (lời thoại 8), sau đó nàng nhận ra chính là Rô-mê-ô (lời thoại 10). Trong lời thoại 10, việc Giu-li-ét nhắc đến dòng họ Môn-ta-ghiu của Rô-mê-ô không phải là ngẫu nhiên, vì mối thù giữa hai dòng họ vẫn là mối lo sợ trong lòng nàng. Những lời của Rô-mê-ô (lời thoại 7, 9, 11) như 'người yêu', 'nàng tiên yên quy' cùng với quyết tâm dứt khoát từ bỏ dòng họ Môn-ta-ghiu, chưa đảm bảo tình yêu thật sự của Rô-mê-ô đối với nàng. Vì vậy, Giu-li-ét mới hỏi một câu có vẻ thừa thãi: 'Anh đã làm thế nào mà tới được chốn này, và tới làm gì?'
Trong lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 13), từ 'tình yêu' được nhắc đến lần đầu tiên và được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần, nhưng điều này vẫn chưa đủ khiến Giu-li-ét tin rằng Rô-mê-ô thật sự yêu mình. Nàng tin vào tình yêu, nhưng vẫn còn nghi ngờ về sức mạnh của nó. Chàng đã vượt qua nhiều trở ngại để đến đây, nhưng liệu mối hận thù giữa hai dòng họ có là rào cản không?
Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 15) đã làm giảm bớt nỗi lo của Giu-li-ét. Câu 'Em chẳng mong muốn họ bắt anh ở đây' là cách nàng tế nhị chấp nhận tình yêu của Rô-mê-ô, khác biệt hoàn toàn so với những lời lẽ quá mức táo bạo ban đầu, khi nàng tưởng chừng không có ai nghe thấy.
Tâm trạng của Giu-li-ét thể hiện rõ ràng rằng nàng yêu Rô-mê-ô, nhưng nàng không biết liệu Rô-mê-ô có yêu mình không. Nàng sẵn lòng vượt qua mối thù giữa hai dòng họ, nhưng không biết liệu Rô-mê-ô có sẵn lòng vượt qua như vậy không. Qua 16 lời thoại, vấn đề 'tình yêu và thù hận' đã được giải quyết.
Xung đột được xem là yếu tố cơ bản của kịch. Xung đột trong kịch là sự va chạm gay gắt giữa các lực lượng đối địch, giữa hai hoặc nhiều nhân vật, quan điểm khác nhau trước cùng một tình huống, hoặc giữa cá nhân và hoàn cảnh; xung đột cũng có thể xảy ra trong tâm trí của mỗi người. Xung đột là thứ điều khiển hành động của các nhân vật và từng bước đòi hỏi giải quyết để thúc đẩy hành động kịch. Thông thường, xung đột là nền tảng của hành động kịch. Tuy nhiên, không phải tất cả hành động kịch đều được xây dựng trên nền tảng của xung đột. Trong đoạn trích 'Tình yên và thù hận', ta có thể nghĩ rằng có xung đột giữa tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét với mối thù hận giữa hai dòng họ Ca-piu-lét và Môn-ta-ghiu. Thật vậy, mối thù giữa hai dòng họ có thể làm cản trở tình yêu của đôi trẻ. Tuy nhiên, qua 16 lời thoại, ta không thấy bất kỳ xung đột nào, không có lực lượng nào cản trở tình yêu của họ. Rô-mê-ô gặp Giu-li-ét và yêu nàng mà không có một chút do dự, không có sự giằng xé tâm lý. Vì tình yêu, Rô-mê-ô sẵn lòng từ bỏ tên họ của mình, chàng cũng đã khẳng định điều đó nhiều lần với Giu-li-ét. Giu-li-ét có nhiều băn khoăn, nhưng chỉ là băn khoăn về việc liệu Rô-mê-ô có vượt qua được mối thù hận hay không, chứ không phải lo lắng về bản thân mình. Có thể nói, ở đây không có xung đột giữa tình yêu và thù hận, chỉ có tình yêu trong sáng, mãnh liệt vượt lên trên hận thù.
Khao khát tình yêu luôn là một ngọn lửa rực cháy trong lòng con người, nhưng không phải ai cũng đủ can đảm và mạnh mẽ để vượt qua mọi trở ngại. Sức mạnh thực sự xuất phát từ sự hòa hợp của hai trái tim yêu nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét, chỉ qua 16 lời thoại, đã cho thấy sức mạnh của tình yêu đó. Họ không chỉ vượt qua những rào cản, mà còn khiến tình yêu của họ nảy nở, trở thành vĩnh cửu. Tài nghệ thuật thiên tài của Shakespeare, cùng với tư tưởng nhân văn của thời đại, đã hòa hợp để tạo ra điều kỳ diệu đó.