1. Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm
1.1. Một số thông tin về tác giả Nguyễn Khoa Điềm
Ảnh: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm, sinh năm 1943, là một nhà thơ nổi tiếng từ Huế, đóng góp lớn cho nền thơ hiện đại Việt Nam.
- Ông đã học tập và trưởng thành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sau đó trở về miền Nam để tham gia cuộc chiến chống Mỹ.
- Sau năm 1975, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục hoạt động văn hóa và chính trị tại Huế, được bầu làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V và Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.
- Từ năm 2001 đến 2006, ông giữ vị trí ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng và Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
1.2. Phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm, một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã mang đến một làn sóng thơ trẻ trung, sôi nổi và đầy nhiệt huyết.
- Thơ của ông thu hút nhờ sự kết hợp giữa cảm xúc mãnh liệt và suy tư sâu sắc, hòa quyện chất trữ tình và chất chính luận, phản ánh tâm tư của một trí thức tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến. Năm 2000, ông vinh dự nhận Giải thưởng Nhà văn về văn học nghệ thuật.
- Các tác phẩm nổi bật: 'Đất ngoại ô' (1972), 'Mặt đường khát vọng' (1974), 'Ngôi nhà có ngọn lửa ấm' (1986)
2. Bối cảnh sáng tác bài thơ 'Đất Nước'
'Mặt đường khát vọng' là một trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Tập thơ phản ánh quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị và vùng tạm chiếm miền Nam, nhận diện rõ sự xâm lược của đế quốc Mỹ và hướng về nhân dân, về đất nước; đồng thời thể hiện ý thức về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
Đoạn thơ 'Đất Nước' nằm trong chương V của trường ca 'Mặt đường khát vọng'. Đây là một đoạn thơ đặc trưng cho phong cách của Nguyễn Khoa Điềm, với cảm xúc mãnh liệt và suy tư sâu sắc, kết hợp giữa trữ tình và chính luận, đã khắc họa hình ảnh đất nước một cách tiêu biểu trong thơ Việt Nam.
3. Phân tích chi tiết
3.1. Cảm nhận về Đất Nước từ góc độ lịch sử, văn hóa, không gian và thời gian (42 câu thơ đầu)
- 9 câu thơ đầu: Giải thích nguồn gốc của Đất Nước/ Đất Nước bắt đầu từ khi nào?
Đất Nước luôn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn cảm hứng dồi dào cho nhiều nhà thơ. Mỗi thời kỳ lịch sử lại có cách định nghĩa riêng về Đất Nước. Trong thơ của Lý Thường Kiệt, Đất Nước hiện lên như một hình ảnh thiêng liêng, trang trọng và hùng vĩ, khó có thể với tới.
'Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
Chắc chắn vận mệnh đã được ghi trong sách trời'
Nguyễn Trãi trong 'Bình Ngô đại cáo' cũng đã khẳng định sự trường tồn của đất nước qua các yếu tố văn hóa, di sản, lãnh thổ, phong tục tập quán, sự tồn tại của các triều đại và các anh hùng kiệt xuất:
'Như nước Đại Việt từ xưa
Đã từ lâu nổi danh văn hiến'
Đất nước ta đã được phân chia thành từng vùng
Tập quán của người Bắc và người Nam có sự khác biệt
Các triều đại từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đã xây dựng nền độc lập qua nhiều thế kỷ
Trong khi đó, các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên đều tự xưng là vua một phương
Sự mạnh yếu của các bên thay đổi theo từng thời kỳ
Các anh hùng của mỗi thời đại đều có những chiến tích đáng khâm phục.
Hay là một quốc gia vĩ đại với vẻ đẹp lộng lẫy và tầm vóc to lớn, được thể hiện trong thơ của Nguyễn Đình Thi.
'Việt Nam qua những cuộc chiến đau thương
Đứng dậy từ bùn lầy, tỏa sáng rực rỡ'
Và trong tác phẩm của nhà thơ Thanh Hải, đất nước hiện lên với vẻ đẹp lung linh, huyền bí.
'Đất nước giống như những vì sao trên trời'
Hãy tiếp tục tiến bước về phía trước.'
Khi đọc thơ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước, ta cảm nhận được sự giản dị và gần gũi của quê hương mình một cách đầy lạ lẫm. Nhà thơ đã mang đến cho ta một cảm giác mới lạ và sâu sắc về Đất Nước trong mối liên hệ với cuộc sống của người dân qua lăng kính văn hóa dân gian. Đất Nước không phải là điều gì đó xa xôi, trừu tượng mà chính là những gì gần gũi, quen thuộc, gắn bó với đời sống và tinh thần con người.
Nhà thơ bắt đầu tác phẩm bằng một giọng điệu nhẹ nhàng và thân mật, như dẫn dắt ta trở về nguồn cội của Đất Nước.
'Khi chúng ta trưởng thành, Đất Nước đã hiện hữu'
Ngay từ câu thơ đầu tiên, chúng ta cảm nhận được sự đặc biệt của hai từ 'Đất Nước' khi chúng được viết hoa. Thông thường, các tên riêng mới được viết hoa, còn từ 'đất nước' thì thường không. Sự việc này có thể thể hiện rằng nhà thơ xem Đất Nước như một thực thể, như một tên riêng, thể hiện sự tôn trọng và ngưỡng mộ đối với Tổ quốc. Điều này hoàn toàn đúng! Khi nói về Đất Nước từ lúc ta trưởng thành, từ 'ta' không chỉ đại diện cho nhân vật trữ tình mà còn cho chúng ta, cho cộng đồng, dân tộc qua nhiều thế hệ. 'Ta' không rõ ràng là ai, nhưng trạng ngữ 'khi ta lớn lên' cho thấy Đất Nước đã hiện hữu từ rất lâu trước đó, từ bao đời, đứng vững và hiên ngang trước khi mỗi chúng ta xuất hiện. Vì vậy, Đất Nước xứng đáng được tôn kính như một thực thể, ta dành lòng thành kính trước non sông.
Sự giản dị không chỉ xuất hiện qua cội nguồn của Đất Nước, mà còn được thể hiện qua lời thơ như những tâm tình, chiêm nghiệm. Đất Nước là không gian đã nuôi dưỡng ta từ thuở bé cho đến lúc trở về với cát bụi. Đất Nước như chiếc nôi chung của dân tộc, ru hồn ta mãi mãi tươi xanh.
Câu thơ tiếp theo giải thích về nguồn gốc của Đất Nước:
'Đất Nước hiện hữu trong những ngày xửa ngày xưa mà mẹ thường kể'
Khi còn bé, ai mà không từng nghe những câu chuyện cổ tích 'ngày xửa ngày xưa' từ bà, những lời ru ngọt ngào của mẹ. Cụm từ 'ngày xửa ngày xưa' mà Nguyễn Khoa Điềm sử dụng thật sự tinh tế và đầy cảm xúc, vì nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người con đất Việt, dẫn chúng ta về những miền xưa cũ thân thuộc. Nó gợi nhớ về một thời thơ ấu xanh tươi, về chiếc nôi êm ái và tình mẹ ngọt ngào. Đất Nước hiện ra trong những câu chuyện cổ, gắn liền với hình ảnh cô Tấm hiền hòa, chàng Thạch Sanh dũng cảm, hay Thánh Gióng oai phong,...
'Tôi yêu những câu chuyện cổ của quê hương'
Vừa nhân ái lại vừa sâu sắc tuyệt vời
Thấu hiểu người khác rồi mới hiểu chính mình
Dù xa cách đến đâu, tình yêu vẫn gần gũi.'
('Truyện cổ nước mình' - Lâm Thị Vỹ Dạ)
Hình ảnh Đất Nước hiện lên thật tuyệt vời, gắn liền với phẩm chất của người Việt: cần cù, chịu khó, dũng cảm, kiên cường và tràn đầy tình yêu thương. Chính không gian văn hóa này đã nuôi dưỡng tâm hồn của bao thế hệ người Việt.
Rồi 'Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn bây giờ'
Dù nhỏ bé, 'miếng trầu' lại chứa đựng cả 'cuộc đời' của Đất Nước, mang theo biết bao tình cảm giản dị và chân thành. Câu thơ gợi nhớ câu chuyện cổ tích 'Sự tích trầu cau' từ thời Hùng Vương, ca ngợi tình cảm sâu nặng giữa anh em, vợ chồng, từ đó hình thành phong tục và tập quán như 'miếng trầu là đầu câu chuyện' hay 'miếng trầu nên dâu nhà người', tạo nên nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của dân tộc. Lịch sử 4000 năm của Đất Nước bắt đầu từ những câu chuyện giản dị và sâu lắng như vậy. Miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho đôi lứa và biểu tượng tâm linh của người Việt.
Đất Nước thật độc đáo khi quay về những miền cổ tích xa xưa, cùng hình ảnh mẹ, bà, thay vì những con số và triều đại hùng vĩ. Từ buổi hồng hoang, Đất Nước đã hình thành, trở thành không gian địa lý che chở con người, và con người đã yêu quý Đất Nước, tạo nên những văn hóa và phong tục đẹp đẽ, gắn bó giữa Đất Nước và con người qua bao năm tháng.
Sau ba câu thơ đầu miêu tả sự ra đời của Đất Nước, câu thơ thứ tư dẫn dắt ta về những giai đoạn Đất Nước 'lớn lên', như một con người, với nhiều sự kiện và mốc thời gian quan trọng trong quá trình phát triển.
'Đất Nước trưởng thành khi nhân dân biết dùng tre để chống giặc'
Hình ảnh Thánh Gióng đánh bại giặc Ân bằng những cây tre đã trở thành một phần không thể thiếu trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả đã khéo léo sử dụng chất liệu từ văn học dân gian, khai thác hình ảnh Thánh Gióng từ truyền thuyết 'Thánh Gióng' với hình ảnh chàng trai Phù Đổng Thiên Vương dùng tre làng Ngà để chống giặc ngoại xâm. Vẻ đẹp của Thánh Gióng hòa quyện với vẻ đẹp của cây tre Việt Nam.
'Nòi tre không bao giờ chịu cong,
Chưa lớn đã nhọn như mũi chông kỳ lạ.'
Cây tre đã trở nên quen thuộc trong mỗi làng quê, là biểu tượng cho phẩm chất của con người Việt Nam: thật thà, chất phác nhưng kiên cường, dũng cảm và bất khuất. Tre còn thể hiện tinh thần đoàn kết, sức mạnh bền bỉ và lòng yêu nước của dân tộc ta qua bao thế hệ.
Cụm từ 'dân mình' thật sự mang một cảm giác gần gũi và ấm áp! Hình ảnh 'lớn lên' giống như sự phát triển mạnh mẽ của dân tộc, từ những ngày tháng khó khăn, đau thương đến những thời kỳ hưng thịnh, đầy sức mạnh và kiên cường. Qua từng giai đoạn đấu tranh, xây dựng, bảo vệ và phát triển Đất Nước, 'Đất Nước' ngày càng trưởng thành. Câu thơ không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc sâu sắc mà còn gợi nhớ đến truyền thống anh hùng của dân tộc ta trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, như đã được Tố Hữu ca ngợi trong bài thơ 'Quang vinh Tổ quốc chúng ta':
'Chúng ta giống như thần Phù Đổng thuở xưa,
Vươn dậy và đánh tan giặc Ân.'
Sức mạnh của nhân dân như ngựa sắt,
Chí kiên cường đã được tôi luyện thành thép.'
Lửa chiến đấu của chúng ta bùng cháy dữ dội,
Nhắm thẳng vào bọn xâm lược độc ác,
Tổ quốc ta quyết không để mất thêm lần nào nữa!
Khu phố, làng mạc, và mọi ngôi nhà ở đây,
Dù có bị tàn phá, thiêu rụi thành tro bụi,
Máu tươi phải trả giá cho món nợ này!
Hình ảnh của Đất Nước luôn hiện hữu trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người, mỗi gia đình, qua các tập tục, thói quen và lối sống gắn bó, cần cù và tình nghĩa.
'Tóc mẹ luôn búi lên sau đầu'
'Cha mẹ yêu thương nhau qua những vị cay nồng và mặn mòi của cuộc sống'
Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên qua thói quen búi tóc sau đầu, thể hiện sự giản dị, dịu dàng và chăm chỉ trong công việc. Đây cũng là một phần không thể thiếu trong văn hóa, phản ánh nền văn hóa và sự vất vả của phụ nữ Việt Nam trong quá khứ.
Đất Nước không chỉ nổi bật với tình nghĩa vững bền của các đôi lứa, mà còn thể hiện qua việc dù trải qua bao thử thách, cha mẹ vẫn gắn bó như gừng cay và muối mặn, không bao giờ thay đổi. Muối và gừng vì vậy trở thành biểu trưng của tình yêu thương và sự trung thành trong hôn nhân.
'Tay dâng đĩa muối và chén gừng'
'Xin đừng quên nhau dù gừng cay muối mặn'.
hoặc
'Muối sau ba năm vẫn còn mặn'
Gừng dù đã chín tháng vẫn giữ được vị cay
Chúng ta có nghĩa tình sâu nặng
Dù có cách xa, vẫn không quên nhau
Sáu ngàn ngày xa cũng không đổi lòng.
Đạo nghĩa vợ chồng vững bền mãi mãi. Một ngày kết duyên là cả đời gắn bó, tình nghĩa không thể diễn tả hết. Tình yêu và nghĩa vụ luôn song hành, vợ chồng không chỉ có tình cảm mà còn có sự gắn bó trọn đời, như muối mãi mặn và gừng mãi cay. Đây là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã khéo léo sử dụng những từ xưng hô quen thuộc trong cuộc sống của người Việt như 'mẹ', 'bà', và 'cha mẹ'. Điều này tạo ra một sợi dây kết nối sâu sắc với truyền thống dân tộc, nhấn mạnh tình cảm đoàn kết, thủy chung của 'con Rồng cháu Tiên' và truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, sự gắn bó với Đất Nước không chỉ nằm ở những tình cảm thiêng liêng mà còn ở các tập tục và hình ảnh quen thuộc, gần gũi:
'Cái kèo cái cột thành tên'
Câu thơ gợi nhớ về những ngôi nhà tranh vách lá với âm thanh 'kẽo kẹt' từ cái kèo, cái cột. 'Cái kèo, cái cột' không chỉ phản ánh sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ dân tộc mà còn là biểu tượng của sự gắn bó với Đất Nước. Đồng thời, câu thơ cũng nhắc đến tập tục đặt tên xấu để dễ nuôi, từ những vật dụng hàng ngày đến tên của trẻ em, gửi gắm yêu thương và ước vọng về thế hệ tương lai của Đất Nước.
Và Đất Nước tiếp tục phát triển với hình ảnh 'hạt gạo' - món quà quý giá từ thiên nhiên đã nuôi dưỡng bao thế hệ.
'Hạt gạo phải trải qua một nắng hai sương, được xay, giã, giần, sàng.'
Hình ảnh hạt gạo với công đoạn 'một nắng hai sương' và các bước 'xay, giã, giần, sàng' phản ánh vẻ đẹp của quê hương. Thành ngữ này nói lên sự chăm chỉ và kiên nhẫn trong cuộc sống nông nghiệp, nơi hạt gạo được tạo ra từ mồ hôi và công sức. Sự tinh khiết của hạt gạo biểu thị tâm hồn của người lao động và nền văn minh lúa nước. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, dù hoàn thành 'Mặt đường khát vọng' ở tuổi 28, vẫn truyền tải sâu sắc về cội nguồn dân tộc, gợi nhớ đến bài ca dao quen thuộc:
'Ai ơi, bưng bát cơm đầy'
'Dẻo thơm từng hạt, đắng cay ngàn phần.'
Và từ những hình ảnh đẹp đẽ đó, 'Đất Nước có từ ngày ấy...' là một khẳng định chân thành và vững chắc. Những vẻ đẹp này được khai thác từ mạch cảm xúc và văn hóa dân tộc, phản ánh sự trường tồn của Đất Nước. 'Ngày ấy' dù xa xôi, nhưng Đất Nước vẫn gần gũi trong cuộc sống chúng ta, hình thành văn hóa và phong tục qua thời gian. Ba dấu chấm kết thúc câu nhấn mạnh sự liên tục và bất tận của truyền thống văn hóa và phong tục của Đất Nước, khiến người ta nhớ về nguồn cội và tình yêu sâu sắc với quê hương.
'Nguyễn Khoa Điềm không dùng cách xác định niên đại của các sử gia hay khảo cổ học để làm rõ sự ra đời của đất nước. Thay vào đó, ông diễn giải sự hình thành của Đất Nước qua lăng kính của lý lẽ và tình yêu thương ngọt ngào, sâu lắng. Lời viết về Đất Nước của ông như những tâm sự dịu dàng từ trái tim người yêu, hiện lên chân thật và gần gũi, phản ánh bề dày và chiều sâu văn hóa dân tộc với những nét đặc trưng thiêng liêng và tự hào.
- 33 câu thơ tiếp theo: Khám phá khái niệm về Đất Nước
- Đất Nước là gì?
'Một cuộc thám hiểm thực sự không phải là tìm vùng đất mới mà là có được một cái nhìn mới.' (Proust) Nghệ thuật luôn đòi hỏi sự sáng tạo, và mỗi nghệ sĩ phải tìm cho mình một con đường độc đáo để để lại dấu ấn trong lòng độc giả. Nhà thơ không thể theo lối mòn mà phải 'khơi nguồn cảm hứng chưa từng có'. Vì vậy, với chủ đề Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những định nghĩa mới mẻ và sáng tạo, phân tích một cách độc đáo qua phép chiết tự, tạo nên một cách nhìn độc lạ và sâu sắc.
Đất Nước được cấu thành từ ba yếu tố chính
+ Chiều rộng không gian địa lý, tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam
Trước tiên, Đất Nước được định hình trong không gian địa lý rộng lớn. Nhà thơ, với tư duy trẻ trung, đã phân tích Đất Nước thành hai phần: Đất và Nước, nhằm khám phá và hiểu rõ hơn. Mở đầu đoạn thơ, khái niệm về 'Đất' được diễn tả một cách độc đáo:
'Đất là nơi anh đến trường'
'Đất' là con đường dẫn đến trường học, mở ra không gian cụ thể của Đất Nước. Những ngôi trường thân thuộc là nơi kết nối với mỗi cá nhân, nơi ta nhận được tình cảm ấm áp từ thầy cô và bạn bè, đồng thời mở ra chân trời tri thức, nuôi dưỡng ước mơ và khát vọng vươn xa.
Khái niệm về 'Nước' còn mang đến nhiều điều bất ngờ hơn:
'Nước là nơi em tắm'
Hình ảnh của 'giếng nước gốc đa' hiện lên, gợi nhớ về quê hương, làng xóm với những con ngõ nhỏ rợp bóng tre và giếng nước ở đầu làng. 'Nước' là nơi em tắm, gợi về những con sông quê hương, những cánh đồng bồi đắp bởi phù sa, và không gian thiên nhiên trong trẻo. Những dòng sông ấy đã là phần ký ức của tuổi thơ, luôn đồng hành cùng ta suốt cuộc đời.
Hình ảnh 'Đất' và 'Nước' luôn đi cùng nhau, giống như anh và em gắn bó. Đất Nước không chỉ là không gian nuôi dưỡng tâm hồn và thể chất mà còn lưu giữ bao kỷ niệm tình yêu đôi lứa.
'Đất Nước là nơi ta hẹn hò'
Dưới ánh sáng của tình yêu đôi lứa, Đất Nước hiện lên như không gian riêng tư của chúng ta, nơi ta cùng nhau hẹn hò với bao cảm xúc bâng khuâng và xao xuyến. Đây là nơi anh nắm tay em, nói những lời yêu thương dù còn vụng về, mở đầu cho một tình yêu đẹp đẽ. Tác giả đã chỉ ra rằng đây là hình ảnh của sự hòa quyện giữa 'Đất' và 'Nước', giữa anh và em, tạo thành một thể thống nhất, không thể tách rời, gợi lên suy nghĩ sâu xa: Đất Nước là sự kết hợp của cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân, lớn và nhỏ, hiện thực và huyền thoại, gắn bó bền chặt.
Với ánh nhìn của tuổi trẻ, Đất Nước là một cõi mộng mơ với những kỷ niệm ngọt ngào của tình yêu.
'Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm'
Cụm từ 'Đất Nước là nơi' được lặp lại như một lời nhắc nhở và khẳng định rằng từng khoảnh khắc nhỏ trong sự trưởng thành của tình yêu đều hòa quyện vào Đất Nước. Đây là nơi chứa đựng tình yêu của chúng ta, là nơi 'em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm', nơi em chia sẻ những tâm tư và cảm xúc thầm kín của tình yêu. Chiếc khăn đã trở thành biểu tượng của tình yêu, phản ánh tâm trạng của người con gái khi yêu.
'Khăn thương nhớ ai'
Chiếc khăn rơi xuống mặt đất
Chiếc khăn lưu luyến nhớ ai
Chiếc khăn treo trên vai
Chiếc khăn nhớ thương ai
Chiếc khăn lau nước mắt.
Hình ảnh chiếc khăn trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn thật sự rất tinh tế:
'Kín đáo giấu chùm hoa dưới chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng bước đến nhà hàng xóm,
Vì bên ấy có người sẽ ra trận ngày mai.'
(Hương thầm)
Trong câu thơ này, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh mối liên kết giữa tình yêu cá nhân và tình yêu tổ quốc, dù khác biệt nhưng vẫn hòa quyện. Những người trẻ sẽ là nền tảng xây dựng và phát triển đất nước, và tình yêu của họ sẽ tiếp thêm sức sống cho tổ quốc, làm đẹp thêm non sông và làm phong phú đời sống mỗi cá nhân.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong 'Đất Nước' đã khéo léo sử dụng các yếu tố văn hóa dân gian như ca dao và hình ảnh đặc trưng của quê hương để mở ra những góc nhìn và cảm nhận mới về đất nước. Các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ và chiết tự được áp dụng một cách tinh tế, vừa mang lại cảm xúc vừa thuyết phục.
Hơn thế nữa, 'Đất Nước' còn khám phá vẻ đẹp từ thiên nhiên qua những hình ảnh đặc sắc trong câu ca dao:
'Đất là nơi phượng hoàng hạ cánh trên hòn núi bạc
Nước là nơi cá ngư ông vẫy vùng giữa biển khơi.'
Từ núi cao đến biển cả, khái niệm Đất Nước lại được làm rõ và sinh động hơn. Hình ảnh chim phượng hoàng và cá ngư ông nổi bật trong ca dao xưa được thể hiện như sau:
'Chim phượng hoàng bay qua hòn núi Bạc
Cá ngư ông vẫy vùng ở biển khơi
Gặp nhau tại đây xin trao đổi đôi lời
Kẻo mai sau cá trở về sông vịnh.'
Con chim ấy di chuyển về vùng núi xanh.
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác chất liệu văn học dân gian, lấy cảm hứng từ những câu hò Bình - Trị - Thiên để vẽ nên một bức tranh Đất Nước đẹp đẽ với cảnh núi non hùng vĩ và biển cả bao la. Hình ảnh 'Đất lành chim đậu' phản ánh sự phong phú và thịnh vượng của Việt Nam, với chim và cá tượng trưng cho sự trù phú. Sự đoàn tụ của chim và cá tượng trưng cho sự hòa hợp giữa Đất và Nước, nhắc nhở chúng ta bảo vệ vẻ đẹp tươi đẹp của quê hương.
'Đất Nước còn là không gian tinh thần, nơi trở về của những tâm hồn yêu quê.' Như chim phượng hoàng trở về núi, cá ngư ông về biển khơi, mỗi con người cũng luôn hướng về nguồn cội Đất Nước. 'Quê hương không nhớ, không lớn nổi thành người.' Đất Nước trở thành nơi thiêng liêng, gắn bó máu thịt như 'chim có tổ, người có tông.'
Hơn nữa, không gian Đất Nước là 'nơi đoàn tụ của dân tộc', là không gian sinh tồn của cộng đồng:
'Không gian rộng lớn'
Đất nước là nơi mà nhân dân đoàn tụ'
Đất Nước với không gian rộng lớn bao la, từ núi sông đến bờ cõi, nối liền Bắc - Trung - Nam, là con đường đến trường, dòng sông tắm, giếng nước, ao làng, và rừng vàng biển bạc rộng lớn. Đó là ngôi nhà chung của đại gia đình Việt Nam qua các thế hệ, là cội nguồn và quê hương tinh thần của mỗi người. Trải qua thời gian dài và bao thử thách, dân tộc ta đoàn tụ và quây quần. Sự hội ngộ này không chỉ là sự trở về với tổ tiên mà còn là sự gắn bó trong không gian và thời gian của Đất Nước. 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, chia sẻ và phát triển Đất Nước, không chỉ là nơi riêng tư mà là không gian sinh tồn của cả cộng đồng. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm thật sự tạo ra cảm xúc sâu lắng và gần gũi.
+ Đất Nước qua lăng kính lịch sử
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ tự hào về không gian Đất Nước mà còn làm rõ chiều dài vô tận của thời gian lịch sử. 'Thời gian đằng đẵng' tượng trưng cho thời gian vô tận, quá trình phát triển không ngừng từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Đất Nước đã tồn tại từ những ngày xa xưa trong cõi mơ màng.
'Từ lúc vũ trụ'
Đã có giang san'
Đất Nước đã hình thành từ những ngày đầu hồng hoang, gắn liền với các câu chuyện sử thi như 'Đẻ đất đẻ nước', từ truyền thuyết 'Sự tích trăm trứng' đến 'Sơn Tinh Thủy Tinh'. Bờ cõi mở rộng, Đất Nước bắt đầu từ đó và tiếp tục phát triển qua 4000 năm lịch sử văn hiến.
Đất Nước hiện lên với chiều dài 'đằng đẵng' trải dài từ quá khứ đến hiện tại và tương lai:
'Những người đã khuất'
'Những người đang sống'
Gắn bó, yêu thương và tiếp nối thế hệ
Tiếp bước di sản của thế hệ trước
Truyền đạt cho con cháu về tương lai'
Quá khứ của Đất Nước được lưu giữ trong hình ảnh 'những ai đã khuất', là những người đã hy sinh vì sự tồn vong của Tổ quốc. Họ có thể là các anh hùng lịch sử như Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi, nhưng cũng có thể là những người bình thường, vô danh, là nông dân nghèo đã trở thành anh hùng. Họ đã cống hiến cuộc đời mình để xây dựng Đất Nước, viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc.
Điệp từ 'những ai' gọi tên tất cả con dân Việt Nam, từ ông cha đã khuất đến những người sống hôm nay. Chúng ta tiếp tục yêu thương, duy trì nòi giống 'con Rồng cháu Tiên', gánh vác di sản của thế hệ trước và bảo vệ nền độc lập mà ông cha đã xây dựng bằng xương máu. Chúng ta cũng tiếp tục phát triển đất nước bằng sức trẻ và trí tuệ. Khi già đi, chúng ta sẽ truyền lại những giá trị ấy cho con cháu, bảo vệ và gìn giữ câu chuyện của Tổ quốc.
Như vậy, qua từng thế hệ, từ đời này sang đời khác, chúng ta luôn 'dặn dò con cháu về tương lai', duy trì những giá trị tinh thần bất diệt như lòng yêu nước, tinh thần kiên cường chống ngoại xâm, và tình cảm thủy chung. Lịch sử bốn nghìn năm của Đất Nước chính là cuộc chạy tiếp sức vĩ đại của các thế hệ người Việt, gắn kết quá khứ, hiện tại và tương lai.
+ Đất Nước trong chiều sâu văn hóa
Đất Nước trở nên hoàn thiện và thiêng liêng hơn khi khám phá sâu vào văn hóa, thống nhất ở cội nguồn và truyền thống dân tộc:
'Đất là nơi chim tụ về
Nước là nơi rồng cư ngụ'
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đã sinh ra đồng bào từ trong bọc trứng'
Nếu Nguyễn Trãi khám phá Đất Nước qua các triều đại lịch sử như 'Triệu, Đinh, Lý, Trần', thì Nguyễn Khoa Điềm lại đưa chúng ta trở về nguồn cội với truyền thuyết tổ tiên. Đất Nước được hình thành từ thuở khai thiên lập địa, nhà thơ cảm nhận Đất và Nước qua chiều dài vô tận của thời gian và chiều sâu lịch sử. Hình ảnh 'chim về' và 'Rồng ở' gợi nhớ nguồn gốc dân tộc từ Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ bọc trăm trứng đã chia thành năm mươi con xuống biển và năm mươi con lên núi, hình thành nên 54 dân tộc anh em hiện nay. Dù ở miền ngược hay miền xuôi, Bắc hay Trung hay Nam, tất cả đều là con Lạc cháu Hồng, cùng hướng về tổ tiên, tri ân nguồn cội, mang trong lòng niềm tự hào dân tộc.
Nhà thơ không chỉ tự hào về cội nguồn văn hóa của Đất Nước mà còn hướng tới các truyền thống văn hóa tốt đẹp đã tồn tại từ ngàn đời.
'Hàng năm ăn đâu làm đâu'
Cũng biết cúi đầu tưởng nhớ ngày giỗ Tổ'
Dân gian thường nhắc nhở mỗi người rằng:
'Dù ai đi ngược hay xuôi'
Nhớ ngày giỗ Tổ vào mùng 10 tháng 3'
hay
'Dù ai làm ăn ở đâu'
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3'
Tiếp bước truyền thống văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã khơi dậy trong chúng ta nhận thức về nguồn gốc tổ tiên, để tri ân những thế hệ đã xây dựng đất nước. Hai từ 'cúi đầu' biểu thị lòng thành kính sâu sắc, tưởng nhớ các vua Hùng đã khai sinh tổ quốc. 'Cúi đầu' để ghi nhớ, để lòng tự nhắc phải giữ gìn đạo lý 'uống nước nhớ nguồn', 'ăn quả nhớ người trồng cây'. Dù người Việt ở đâu, quê hương hay xứ lạ, họ vẫn hướng về quê cha đất tổ như về với ngôi nhà chung trong nền văn hóa yêu thương và gắn bó.
Với ngôn từ tự do, ấm áp như những cuộc trò chuyện thân tình, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng tỏ khái niệm Đất Nước qua không gian rộng lớn, thời gian lịch sử dài lâu, và chiều sâu văn hóa, mở ra cái nhìn mới mẻ và sâu sắc.
- Đất Nước là sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, là 'máu xương của mình', mỗi người đều có trách nhiệm với Đất Nước
Đất Nước không chỉ hiện diện qua không gian địa lý, chiều dài lịch sử, và chiều sâu văn hóa, mà còn sống trong mỗi cá nhân, hiện thân qua từng con người.
'Trong anh và em hiện tại'
'Có một phần của Đất Nước'
Đất Nước hiện diện trong những hình ảnh giản dị của cuộc sống hàng ngày như miếng trầu bà ăn, hạt gạo chúng ta trồng, cây tre ven đường, hay những con đường đến trường, nơi ta đã từng hẹn hò. Đất Nước còn hòa quyện trong hình hài của mỗi người, từ máu thịt, trái tim, hơi thở đến sự sống. Cuộc sống của mỗi cá nhân không chỉ thuộc về riêng mình mà còn thuộc về Đất Nước, thừa hưởng và phát triển các giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần. Đất Nước tạo nên hình hài, cách sống, và cách nghĩ, đồng thời chứa đựng những truyền thống văn hóa và đạo lý đã làm nên bản sắc và tâm hồn của người Việt qua bao thế hệ.
Câu thơ vang lên như một niềm vui và tự hào, khi tác giả nhận ra rằng dù anh và em chỉ là một phần nhỏ trong Đất Nước, nhưng chúng ta vẫn gắn bó sâu sắc và không thể thiếu trong cộng đồng rộng lớn của Đất Nước.
Ngoài việc nhận thức và khẳng định Đất Nước tồn tại trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ còn nhấn mạnh sự hòa quyện sâu sắc giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu đất nước.
'Khi hai người nắm tay nhau'
Đất Nước trong chúng ta trở nên hòa hợp và nồng nàn'
Khi chúng ta cùng nắm tay mọi người'
Đất Nước trở nên trọn vẹn và vĩ đại.'
Đất Nước là nơi chúng ta đã hẹn ước, là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ. Giờ đây, Đất Nước là nơi hai chúng ta nắm tay nhau, trao yêu thương và thề ước. Tình yêu đôi lứa trở thành nền tảng vững chắc cho tình yêu gia đình, quê hương, và đất nước. Hạnh phúc cá nhân hòa quyện với hạnh phúc chung của Đất Nước.
'Ngày xưa yêu quê hương vì nơi đó có chim có bướm'
'Vì có những ngày trốn học bị đòn roi'
'Ngày nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất'
'Có một phần xương thịt của em tôi.'
Khi 'hai đứa cầm tay' thể hiện sự kết nối giữa các cá nhân, thì 'hai đứa cầm tay mọi người' nhấn mạnh mối quan hệ đoàn kết và yêu thương giữa cá nhân và cộng đồng, tạo nên hình ảnh 'Đất Nước vẹn tròn to lớn'. Sự chuyển mình từ 'hài hòa nồng thắm' đến 'vẹn tròn to lớn' phản ánh sự phát triển liên tục của lịch sử dân tộc, quá trình tiếp thu giá trị văn hóa và tinh thần trong hàng nghìn năm, dẫn đến sự gắn bó mật thiết giữa đồng bào và đồng chí. Những lời dạy của tổ tiên vẫn là bài học quý giá về đạo lý và tình yêu thương.
'Tấm lòng bao la che chở những người quanh ta'
'Người trong cùng một đất nước cần phải yêu thương và giúp đỡ nhau'
Những câu thơ tiếp theo phản ánh niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng và rực rỡ của Đất Nước.
'Ngày mai khi con ta trưởng thành'
Con sẽ đưa Đất Nước vươn xa
Đến những chân trời mơ mộng.
Các cụm từ như 'mai sau', 'trưởng thành', 'vươn xa' trong những tháng ngày mơ mộng phản ánh cái nhìn lạc quan về tương lai, về hành trình chinh phục những giấc mơ tươi đẹp. Những lời nhắn nhủ chân thành của tác giả hướng tới thế hệ tương lai, những người sẽ 'tiếp nối công việc của thế hệ trước' để xây dựng Đất Nước trở nên thịnh vượng và sánh vai với các cường quốc toàn cầu, theo như lời dạy của Bác Hồ. Hai từ 'trưởng thành' mang theo niềm tin vào trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc, để 'đưa Đất Nước vươn xa' đến những chân trời mới, biến giấc mơ thành hiện thực và từ một Đất Nước nghèo khó trở thành quốc gia vĩ đại, rực rỡ.
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ bộc lộ sự xúc động sâu sắc của nhà thơ khi nhận thức rõ trách nhiệm cá nhân đối với Đất Nước.
'Em à, Đất Nước chính là máu thịt của chúng ta'
Chúng ta phải biết kết nối và chia sẻ
Phải biết hóa thân vào hình hài của đất nước
Để dựng xây Đất Nước trường tồn
Lời thơ chân thành, gọi mời 'em ơi em' như một lời nhắc nhở yêu thương và chia sẻ niềm hạnh phúc khi nhận thức rằng 'Đất Nước là máu thịt của mình'. Do đó, chúng ta cần 'kết nối và chia sẻ', 'hóa thân' vào hình hài của quê hương. Cụm từ 'phải biết' nhấn mạnh trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mỗi cá nhân trong việc xây dựng 'Đất Nước trường tồn'. Đây là một mệnh lệnh từ trái tim của mỗi người Việt Nam yêu nước, một lời kêu gọi mạnh mẽ và chân thành. Để bảo vệ từng tấc đất quê hương, người Việt sẵn sàng chiến đấu và 'hóa thân' cho tổ quốc, để Đất Nước mãi mãi vững bầu. Ý thơ thể hiện sức mạnh của ý chí và khát vọng vượt xa khỏi từ ngữ, để bảo vệ và gìn giữ 'Đất Nước trường tồn'.
'Ôi tổ quốc, khi cần, ta sẵn sàng hy sinh'
Cho từng mái nhà, từng ngọn núi, con sông
Nhà thơ sử dụng cách nói nhẹ nhàng, thủ thỉ của những đôi lứa yêu nhau để gửi gắm thông điệp trách nhiệm đến các thế hệ sau về Đất Nước. Những câu thơ ngọt ngào và sâu lắng thể hiện niềm tự hào và tình yêu vô bờ bến đối với Đất Nước, nơi của 'những người chưa bao giờ khuất' nhờ vào 'tình yêu nước thương nhà' của nhân dân.
3.2. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân - Nhân dân đã tạo nên Đất Nước
- Nhân dân tạo nên không gian địa lý của Đất Nước
Bài thơ 'Đất Nước' của Nguyễn Khoa Điềm mở ra một hình ảnh Đất Nước bình dị, gần gũi, thể hiện Đất Nước của nhân dân. Với cái nhìn sâu sắc, nhà thơ khám phá địa lý, lịch sử, văn hóa của Đất Nước gắn liền với vai trò của nhân dân. Đây là một câu trả lời thẩm mỹ cho câu hỏi về người tạo nên hình dáng Đất Nước, khẳng định rằng chính nhân dân là người tạo ra không gian địa lý của Đất Nước.
Những người vợ chờ đợi chồng đã tạo nên các núi Vọng Phu
Những đôi tình nhân đã góp phần tạo nên hòn Trống Mái
Gót chân của Thánh Gióng đã để lại hàng trăm ao đầm
Chín mươi chín con voi đã cống hiến cho đất tổ Hùng Vương
Các con rồng nằm yên góp phần làm nên dòng sông xanh mát
Người học trò nghèo đã dâng tặng cho Đất Nước núi Bút và non Nghiên
Con cóc và con gà quê hương đã tạo nên cảnh quan Hạ Long
Những người dân đã góp phần đặt tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Trên khắp các cánh đồng và gò bãi
Không mang theo một hình dáng, một ước vọng, hay một lối sống của ông cha
Tư tưởng 'Đất Nước của nhân dân' bắt đầu từ lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với nhân dân - những người đã góp phần từ những điều giản dị nhất để xây dựng Đất Nước. Tác giả đề cập đến các di tích văn hóa như Đền Hùng, Hòn Vọng Phu, cùng các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long, và các thắng cảnh như núi Bút, non Nghiên, cùng với những hình ảnh bình dị như ruộng đồng, gò bãi, ao đầm trải dài khắp đất nước, tạo nên một bản đồ văn hóa phong phú của Đất Nước.
Trong khi các nhà thơ, nhà văn khác thường nhìn nhận thiên nhiên và giang sơn như những kiệt tác của tạo hóa, Nguyễn Khoa Điềm lại liên kết chúng với đời sống của nhân dân và tâm hồn dân tộc. Ông cho rằng chính nhân dân đã hóa thân vào hình sông, dáng núi, tạo nên vóc dáng và linh hồn của Đất Nước, đồng thời xây dựng trầm tích văn hóa của các địa danh. Mỗi mảnh đất, dòng sông, ngọn núi đều gắn bó với tính cách và tâm hồn của người Việt.
Nhiều thế hệ người Việt đã để lại dấu ấn sâu đậm trên danh lam thắng cảnh của đất nước, hòa quyện vào tâm hồn dân tộc. Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền với truyền thuyết nàng Tô Thị chờ chồng hóa đá, và hòn Trống Mái cũng mang câu chuyện tình yêu vợ chồng đầy nghĩa tình. Những hình ảnh này thể hiện sự thủy chung và lòng yêu nước sâu sắc của người Việt, đặc biệt là người phụ nữ. Họ đã góp phần tạo nên những danh thắng không chỉ đơn thuần là hòn đá mà là những câu chuyện đời sống vô giá.
Tình yêu nước nồng nàn của người Việt đã tạo nên những di tích lịch sử và mảnh đất thiêng liêng. Gót ngựa của Thánh Gióng để lại hàng trăm ao đầm ở Sóc Sơn, tượng trưng cho khí phách kiên cường của dân tộc, còn chín mươi chín con voi ở Phong Châu thể hiện lòng đoàn kết hướng về quốc gia thống nhất. Những di tích này không chỉ là vẻ đẹp mà còn là biểu tượng của tinh thần bất khuất và lòng yêu nước.
Ngoài sông Hồng 'đỏ nặng phù sa' và sông Mã 'bờm ngựa phi thác trắng', Đất Nước còn có Cửu Long giang với vẻ đẹp huyền bí và thơ mộng. Những con rồng in dấu từ bao đời nay đã tạo nên dòng sông xanh thẳm, mềm mại và tỏa phù sa khắp muôn nơi, thể hiện sự kiêu sa và huyền thoại của Nam Bộ.
Nếu không có những học trò nghèo, Đất Nước sẽ thiếu đi hình ảnh núi Bút, non Nghiên, tượng trưng cho truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo của ngàn năm văn hiến. Cả con cóc, con gà quê hương cũng đã góp phần làm cho Hạ Long trở thành một kỳ quan thiên nhiên thế giới, đưa vẻ đẹp của Đất Nước ra toàn cầu. Những tên đất, tên làng như ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm cũng được đặt từ những con người bình dị góp phần xây dựng quê hương.
Những cụm từ như 'góp cho Đất Nước', 'góp nên', 'góp mình', 'góp dòng sông', và 'góp cho Hạ Long' liên tục xuất hiện trong đoạn thơ. Những người vợ chờ chồng, cặp đôi yêu nhau, học trò nghèo, và dân chúng đều góp phần âm thầm và vô danh vào việc xây dựng Đất Nước, để lại dấu ấn sâu đậm trong hình dáng quê hương.
'Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào
Như thấy những ngọn núi, dòng sông diễm lệ'
(Chế Lan Viên - 'Chim lượn trăm vòng')
Bốn câu thơ kết thúc đoạn văn thể hiện sự khái quát sâu sắc từ việc liệt kê các hiện tượng cụ thể, được xây dựng theo lối quy nạp. Nguyễn Khoa Điềm đã rút ra một chân lý triết luận sâu sắc và rõ ràng từ đời sống.
'Và ở mọi nơi trên cánh đồng và gò bãi
Không có dáng dấp nào, không ao ước nào, không lối sống nào của tổ tiên'
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm, nơi nào cũng thấy'
Những cuộc đời đã biến thành núi sông của ta'
Những cuộc đời đã biến thành núi sông của chúng ta.'
Những câu thơ trên kết hợp hài hòa giữa sự trữ tình sâu lắng và tinh thần chính luận sắc sảo. Điều này mang đến cái nhìn mới mẻ về không gian địa lý của Đất Nước, đồng thời khơi dậy tình yêu quê hương và lòng tri ân với các thế hệ đã xây dựng núi sông và bờ cõi.
Trên khắp các cánh đồng, gò bãi của Việt Nam, luôn hiện diện 'dáng hình, ao ước, lối sống của tổ tiên'. Các hình ảnh núi, sông, rừng, biển và các tên bản, tên làng chính là linh hồn, phong cách và ước mơ của các thế hệ cha ông qua hàng nghìn năm.
Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian không có điểm kết thì 'đi đâu ta cũng thấy' lại là hình ảnh của một Đất Nước rộng lớn, với rừng vàng và biển bạc. Trong dòng chảy vô tận của thời gian và không gian mênh mông, 'Những cuộc đời đã hóa núi sông của ta'. Từ 'hóa' không chỉ thể hiện sự đóng góp to lớn của nhân dân mà còn là sự biến hóa kỳ diệu của những con người thầm lặng đã xây dựng non sông đất nước. Mỗi ngọn núi, dòng sông, cánh đồng đều chứa đựng tâm huyết của những thế hệ trước. Họ đã khai phá đất đai bằng đôi tay cần cù, gửi gắm linh hồn vào cảnh sắc để truyền lại cho thế hệ sau. Vì thế, mỗi danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa tại Việt Nam là một tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ca ngợi núi sông cũng là tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn nhân dân.
Tư tưởng 'Đất Nước của nhân dân' được thể hiện rõ nét trong không gian, nơi vẻ đẹp tâm hồn và tình nghĩa đã tạo nên một Đất Nước rạng rỡ, với núi sông hùng vĩ và giang sơn tươi đẹp muôn đời.
- Đóng góp của nhân dân trong lịch sử
Ngoài việc phát hiện những khía cạnh mới lạ về sự đóng góp của nhân dân trong việc hình thành không gian địa lý của đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn hướng sự chú ý vào chiều sâu lịch sử để chiêm nghiệm về công lao của nhân dân trong công cuộc dựng nước và bảo vệ tổ quốc.
'Em ơi em
Hãy nhìn thật xa
Vào bốn nghìn năm lịch sử của đất nước'
Đoạn thơ bắt đầu bằng tiếng gọi đầy chân thành 'em ơi em', giống như một lời tâm sự hoặc một cuộc trò chuyện gần gũi với 'em'. 'Em' có thể là một hình ảnh trong tưởng tượng của tác giả, thế hệ trẻ tiếp nối cha ông, hoặc chính là sự tự đối thoại của tác giả với chính mình. Nhà thơ mời gọi chúng ta 'nhìn xa vào bốn nghìn năm lịch sử Đất Nước', một quốc gia với truyền thống vinh quang được xây dựng từ sức mạnh và sự vĩ đại của nhân dân.
Nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử của Đất Nước, nhà thơ nhận thấy rằng những người xây dựng đất nước không chỉ là các anh hùng nổi tiếng, mà còn bao gồm những người bình thường, không tên tuổi:
'Từng năm tháng trôi qua, lớp lớp người lao động
Con gái, con trai cùng thế hệ chúng ta
Chăm chỉ làm việc'
Khi có giặc, người con trai ra trận chiến đấu
Người con gái ở lại chăm sóc gia đình và con cái
Ngày giặc xâm lược, cả phụ nữ cũng cầm vũ khí chiến đấu'
Các từ như 'người người', 'lớp lớp', 'con gái', 'con trai' đã tạo nên hình ảnh đông đảo của nhân dân. Từng thế hệ nối tiếp nhau, người Việt Nam đã cùng nhau viết nên những trang sử vẻ vang của Đất Nước.
Khi nhìn lại quá khứ, chúng ta thấy những người con gái và con trai của thời kỳ đó cũng giống như thế hệ hiện tại. Trong thời bình, họ chăm chỉ lao động, sống giản dị và yêu thương. Trong thời chiến, người con trai ra trận chiến đấu dũng cảm, trong khi người con gái ở lại chăm sóc gia đình, làm hậu phương vững chắc. Họ cùng nhau chiến đấu chống giặc, và 'ngày giặc đến, đàn bà cũng cầm vũ khí', làm nên những chiến công hiển hách cho Đất Nước, với những tên tuổi nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai,...
Toàn bộ đoạn thơ không nhắc đến tên riêng, không có triều đại lịch sử cụ thể, cũng không có tên của các anh hùng, mặc dù 'những anh hùng, cả anh và em đều nhớ'. Có lẽ tên tuổi của họ được tổ quốc ghi nhớ, sử sách lưu truyền.
'Những người đã trở thành anh hùng'
'Những anh hùng mà cả anh và em đều nhớ'
Còn những con trai, con gái trong 'bốn nghìn năm tuổi trẻ giống chúng ta' thì không ai biết mặt đặt tên. Họ âm thầm hi sinh công sức, mồ hôi, và cả tuổi trẻ, hạnh phúc để 'xây dựng Đất Nước'. Họ là những người lặng lẽ mà vĩ đại. Đất Nước anh hùng được hình thành từ những con người bình dị, mộc mạc nhưng đầy cao cả:
'Từ gốc lúa, bờ tre bình dị'
Những tiếng lòng căm phẫn đã được thốt ra
(Nguyễn Đình Thi)
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi công lao của những người đã trở thành một phần của Đất Nước từ sự hi sinh âm thầm và lặng lẽ của nhân dân.
'Họ đã sống và ra đi
Với sự giản dị và bình thản
Không ai biết tên tuổi
Nhưng họ đã tạo dựng Đất Nước.'
Cấu trúc đối lập giữa 'sống' và 'chết', 'giản dị' và 'bình tâm' thể hiện sự thanh thản trong cái chết của bao thế hệ người Việt. Họ sống giản dị, chân chất, và ra đi bình thản, hiến dâng cuộc đời để bảo vệ tổ quốc mà không cần vinh danh hay ghi nhớ. Lịch sử 4000 năm của Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của những người anh hùng ấy.
'Họ' có thể là những nông dân vất vả trên cánh đồng, với công việc cực nhọc nhưng khi giặc đến, họ không chờ đợi hay cầu cứu, mà sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. 'Họ' cũng có thể là những người trai trẻ bỏ lại quê hương, gia đình để chiến đấu và không quay trở lại. Mặc dù không ai nhớ tên, nhưng họ đã tạo dựng truyền thống vinh quang cho Đất Nước.
Đoạn thơ mang đến một nhận thức đơn giản mà sâu sắc. Mỗi người Việt Nam, dù nhỏ bé, đều đóng góp vào việc xây dựng lịch sử dân tộc. Tình yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ cảm động mà còn kích thích tinh thần tự hào và niềm tin vào quê hương trong thế hệ trẻ. Nhà thơ đã giúp con người hiểu rõ bản thân, nâng cao niềm tin và khát vọng hướng tới chân lý.
- Nhân dân đóng góp vào việc tạo dựng giá trị văn hóa và tinh thần
Nhân dân không chỉ xây dựng không gian địa lý và lịch sử Đất Nước mà còn tạo nên và gìn giữ những truyền thống và giá trị văn hóa. Mọi vẻ đẹp của nền văn hóa truyền thống đều được nhân dân gìn giữ và truyền lại.
'Họ gìn giữ và truyền cho ta những hạt giống để trồng'
'Họ chuyền ngọn lửa qua từng nhà từ những viên than đỏ'
'Họ truyền đạt giọng nói cho con cái học tập'
Họ mang theo tên xã làng trong mỗi lần di dân'
Từ 'họ' được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, nhấn mạnh công lao to lớn của nhân dân đối với Đất Nước. Cặp từ 'giữ - truyền' được lặp lại để khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người và thế hệ trong việc xây dựng đất nước, 'gánh vác phần người đi trước để lại' và 'dặn dò con cháu chuyện mai sau' để đưa 'Đất Nước đến những ngày tháng mơ mộng.'
Nhân dân là những người đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa cho chúng ta, để Việt Nam suốt bốn nghìn năm gắn bó với hình ảnh cây lúa và nền văn minh lúa nước. Hạt lúa, sản phẩm của 'một nắng hai sương', là tinh hoa của đất trời, kết tinh mồ hôi và công sức của người nông dân. Hạt lúa trở thành biểu tượng cho sự tần tảo của người nông dân, đồng thời là biểu tượng của cuộc sống thanh bình, ấm no.
Ngoài việc giữ lại hạt lúa cho ta trồng, nhân dân còn truyền 'lửa qua mỗi nhà' từ hòn than qua con cúi. Ngọn lửa tượng trưng cho sự sống, sự quây quần, ấm áp và khát vọng về một cuộc sống thịnh vượng. Trong quá khứ, hình ảnh người Việt chuyền lửa cho nhau khi tắt đèn đã gợi lên tình cảm sâu sắc. Từ những bếp lửa 'ấm áp, nồng nàn' trong gia đình, ngọn lửa đã tiếp bước vào cuộc chiến, thể hiện lòng yêu nước và ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm.
Một trong những giá trị văn hóa đẹp của Đất Nước là ngôn ngữ và giọng điệu. Nhân dân đã 'truyền lại giọng điệu cho con mình tập nói', bảo tồn tiếng Việt như giữ gìn linh hồn của dân tộc. Dù trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, giọng điệu và tiếng nói dân tộc vẫn không thay đổi, khẳng định tinh thần dân tộc và sự bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc.
Nhân dân còn gìn giữ các địa danh, tên xã tên làng như lưu lại dấu ấn lịch sử qua mỗi chuyến di cư. Họ mang theo những tên gọi quen thuộc để đặt cho những vùng đất mới, những cái tên gợi nhớ tình yêu và nỗi nhớ quê hương, về cội nguồn và truyền thống văn hóa. Họ xây dựng nền tảng vững chắc cho con cháu bằng cách 'đắp đập be bờ cho đời sau trồng cây hái trái'. Những thế hệ trước đã vất vả, kiên nhẫn để thế hệ sau hưởng thành quả ngọt ngào.
Nhân dân đã khắc ghi truyền thống bất khuất trước mọi kẻ thù, gìn giữ vẻ đẹp văn hóa qua nhiều thế hệ.
'Khi có giặc ngoại xâm thì phải đánh giặc ngoại xâm'
'Khi có nội thù thì phải đứng lên đánh bại'
Giọng thơ cứng rắn, mạnh mẽ phản ánh tinh thần tự giác và trách nhiệm cao của nhân dân. Họ đã dũng cảm chiến đấu để đẩy lùi ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ sự bình yên của Đất Nước, cũng như gìn giữ các giá trị quý báu của dân tộc.
- Nhân dân tạo nên chiều sâu tư tưởng
Nhân dân đã dấn thân vào mọi khó khăn, vì một lý tưởng:
'Để Đất Nước này thuộc về Nhân Dân'
'Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của những câu ca dao và thần thoại'
Bốn từ 'Đất Nước' được nhắc lại, làm nổi bật ý nghĩa 'Đất Nước này thuộc về nhân dân', những bài ca dao thần thoại và nền văn hóa đã ăn sâu vào máu thịt và trái tim. Đất Nước ấy đã dạy cho mỗi người tình yêu quê hương và tổ quốc:
'Dạy anh cách yêu em từ những ngày đầu đời'
Biết trân trọng những ngày khó khăn và vất vả
Biết trồng cây để sau này có thể dùng làm gậy
Đi trả thù mà không lo sợ kết quả lâu dài
Ôi những con sông, nguồn gốc của chúng từ đâu?'
Về quê hương, ta không quên cất lên những bài hát
Người hát khi chèo thuyền, vượt thác, gập ghềnh
Gợi lên những sắc thái khác nhau của những con sông trôi
Đất nước chính là nơi nuôi dưỡng và dạy chúng ta tình yêu thương gia đình từ nhỏ, trân trọng công sức của chính mình. Đất nước còn dạy ta sự kiên trì và quyết tâm theo đuổi mục tiêu, xây dựng ý chí để gặt hái thành công trong tương lai. Câu hỏi 'Ôi, những dòng sông bắt nguồn từ đâu?' gợi mở nguồn cội, từ nơi nào mà các bài hát quay về với quê hương? Những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác, như ông lái đò trên sông Đà của Nguyễn Tuân hay đoàn thuyền đánh cá trong thơ Huy Cận, đều làm nổi bật hình ảnh người lao động góp phần xây dựng một đất nước vĩ đại, tạo nên 'trăm màu trên trăm dáng sông xuôi'. Chính vì vậy, nhân dân là những người đã làm nên đất nước!
Tóm lại
4.1. Nội dung
Đất nước được cảm nhận qua nhiều khía cạnh, từ địa lý, lịch sử đến văn hóa. Tác giả cũng nhấn mạnh trách nhiệm của thế hệ trẻ, đặc biệt là trong việc góp sức xây dựng đất nước.
Cái nhìn mới về đất nước tập trung vào tư tưởng rằng đất nước thuộc về nhân dân. Đất nước là sự kết hợp tinh túy của vẻ đẹp tâm hồn, công sức và khát vọng của nhân dân. Nhà thơ khẳng định rằng chính nhân dân là những người tạo nên Đất nước.
4.2. Nghệ thuật
- Sử dụng thể thơ tự do phóng khoáng, độc đáo và tự nhiên, giúp cảm xúc được diễn đạt một cách mạch lạc và trôi chảy.
- Sử dụng nguyên liệu từ văn hóa dân gian với nhiều thể loại phong phú như phong tục, tập quán, ca dao, thần thoại, cổ tích,... Không sao chép hoàn toàn mà chỉ lựa chọn những yếu tố tiêu biểu để kết nối người đọc với văn hóa dân gian.
- Giọng thơ kết hợp giữa trữ tình và chính luận, hòa quyện cảm xúc sâu lắng và những suy tư tinh tế của người trí thức về quê hương và nhân dân.
5. Chất trữ tình - chính luận trong tác phẩm 'Đất Nước' của Nguyễn Khoa Điềm
5.1. Chất chính luận
Chất chính luận thể hiện rõ qua quan điểm và tư tưởng của tác giả.
- Thúc đẩy tinh thần dân tộc trong thế hệ trẻ miền Nam, kiên quyết đứng về phía nhân dân và cách mạng.
- Kết cấu của trường ca được tổ chức để giải đáp các câu hỏi: Đất Nước hình thành từ khi nào? Đất Nước là gì? Ai đã tạo ra Đất Nước?
5.2. Đặc trưng trữ tình
- Những câu thơ không chỉ thể hiện trực tiếp cảm xúc của tác giả mà còn phản ánh sự trân trọng và yêu mến đối với hình ảnh và chi tiết của Đất Nước gắn bó với nhân dân.
- Suy tưởng cũng là một lợi thế, nó không chỉ được diễn tả bằng lời nói mà còn được thể hiện qua hình ảnh thơ và cảm xúc của chủ thể trữ tình.
6. Một số suy ngẫm về 'Đất Nước'
- Chúng ta thấy một 'Chiều Matxcova' yên bình và tươi đẹp, một 'Dòng Danube xanh' êm đềm với những làn sóng vỗ về, một Surriento trong 'Trở về Surriento' lãng mạn tuyệt vời: 'Biển xanh, sóng đẹp bao la. Cuộc đời ta như vang vọng ngàn khúc ca. Ôi đất nước xanh tươi như mộng đẹp. Lưu luyến trong tâm hồn mọi người...' Tình yêu quê hương từ những điều giản dị chính là nguồn cảm hứng cho tình yêu tổ quốc. Như một nhà văn Nga đã nói: 'Con suối hòa vào sông, con sông hòa vào đại dương Volga, lòng yêu quê hương chính là khởi đầu của lòng yêu tổ quốc.' Và trong từng bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, tình yêu nước cũng bắt nguồn từ những điều thân thuộc và bình dị nhất.
- 'Đất nước với các nhà thơ khác là những huyền thoại và anh hùng, nhưng với tôi, nó là hình ảnh của những con người vô danh và bản thân tôi.'
- 'Khi nói về những vấn đề lớn lao một cách nhẹ nhàng, khi diễn tả về đất nước với sự dịu dàng, ngay cả những khoảnh khắc hò hẹn lứa đôi trong thơ của ông, những ngày chiến tranh cũng mang đậm bản sắc dân tộc.'
- 'Trường ca 'Mặt đường khát vọng' không chỉ phản ánh sự chín muồi về tư tưởng và nhận thức mà còn thể hiện một phong cách thơ với chất giọng riêng biệt.'
Chúng tôi hy vọng rằng bài viết này đã mang lại cho quý độc giả những thông tin giá trị. Xin chân thành cảm ơn!