1. Tác phẩm số 1
2. Tác phẩm số 2
2 Tác phẩm mẫu Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
1. Nguồn cảm hứng lãng mạn và tinh thần kiên cường trong bài thơ Tây Tiến, mẫu số 1:
Cảm hứng lãng mạn thể hiện sự đậm chất tình cảm và khám phá độ sâu của trí tưởng tượng. Tâm hồn của Quang Dũng trong Tây Tiến là một biểu tượng của điều này. Nó bắt đầu tại đầu bài thơ, tràn đầy sức mạnh và cảm xúc trong một khúc nhạc 'nhớ nhung' đặc biệt, một dòng suối tinh khôi xuyên suốt bài thơ. Tâm hồn ấy tồn tại khắp mọi nơi, lưu lại từng chi tiết, từ cảnh chiến trường khốc liệt, hoang dã đến cảnh đẹp êm đềm, thơ mộng, đến một lễ hội hoa nhiều màu sắc ở xứ xa xôi; từ kí ức về một làng Mai Châu huyền bí 'cơm bốc hơi' đến một 'đêm mơ Hà Nội hương thơm' đầy quyến rũ. Nhà thơ đã làm nổi bật điều phi thường, tạo ra ấn tượng mạnh về sự tráng lệ, mãnh liệt và vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt vời bằng cách sử dụng khéo léo những đối lập (ví dụ, trong hai dòng thơ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống / nhà ai Pha Luông mưa xa khơi; Trí tưởng tượng mênh mông khiến thi nhân hình dung ra một 'đêm huyền bí', cảm nhận được sức mạnh oai vệ của Thần Núi, cảm nhận 'hồn lau nẻo bến bờ' và nghe thấy tiếng 'sông Mã hát khúc hành trình độc đáo'.
Tinh thần bi tráng thể hiện ở đâu đó không tránh khỏi nỗi đau, thường nhắc đến chủ đề của cái chết, nhưng đó không phải là cái chết đau lòng mà là cái chết hùng vĩ, tràn ngập của những chiến sĩ bước vào thế giới bất tử. Bài thơ ba lần đề cập đến cái chết, mỗi cái chết đều đẹp, nhưng cái chết đẹp nhất là cái chết lịch lãm này:
Chiếc áo bào thay cho màn anh hùng trên đất
Sông Mã vang lên giai điệu hành trình duyên dáng
Tinh tế vì được bao bọc bởi những tấm giáp chiến, kết nối mệnh phận với Đất mẹ, và đặc biệt là được thiên nhiên sáng tạo ra bản nhạc mãnh liệt và oai hùng để tiễn đưa linh hồn của người chiến sĩ. Ở đây, thủ pháp tăng cường đã đưa yếu tố hùng tráng lên đến đỉnh điểm diệu kì của nó.
Sức mạnh hùng tráng tạo nên bức tranh đặc sắc của bài thơ, xuất hiện khắp nơi trong tác phẩm, nhưng rõ ràng và in sâu nhất trong đoạn thứ ba khi Quang Dũng mô tả hình ảnh người lính Tây Tiến, đồng đội của ông, trong các cặp hình ảnh tương phản: giữa vẻ ngoại hình khiêm tốn và tâm hồn 'hung dữ như con hổ', giữa 'đôi mắt tràn đầy ước mơ qua bờ biên giới' và 'đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm', và đặc biệt là giữa hình ảnh của cái chết 'lan tỏa trên biên cương, mộ xa xôi' và ý thức đánh đuổi kẻ thù hết lòng của người chiến sĩ 'chiến trường đi chẳng hối tiếc đời xanh!' Tư thế ra đi như vậy thì cái chết có còn ý nghĩa gì với họ?
2. Nguồn cảm hứng lãng mạn và tinh thần kiên cường trong bài thơ Tây Tiến, mẫu số 2:
Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn đồng hành, đã trải qua nhiều năm, cùng sáng tác và in thơ cùng Quang Dũng, đã viết về hoàn cảnh mà Quang Dũng sáng tác bài thơ như sau: 'Đoàn quân Tây Tiến, sau thời gian hoạt động ở Lào, quay về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó cho đến cuối năm 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác. Không lâu sau khi rời khỏi đơn vị cũ, anh ngồi tại Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ - T.Đ.X) và biết đến bài thơ 'Tây Tiến''.
Để tìm hiểu sâu hơn về bài thơ Tây Tiến, trước hết phải hiểu rõ về đoàn quân Tây Tiến và vùng lãnh thổ mà nó hoạt động.
Vào cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến, một đơn vị mới thành lập nhằm hỗ trợ bộ đội Lào bảo vệ biên giới Lào - Việt, đồng thời tiêu diệt địch ở Thượng Lào để hỗ trợ chiến sự ở các vùng khác trên lãnh thổ Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rộng lớn, bao gồm rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc, đi qua Sầm Nứa và quay về miền tây Thanh Hoá, những vùng đất hoang sơ, nguy hiểm với núi cao, sông sâu, và rừng già nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến, đa phần là thanh niên Hà Nội, đến từ nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên (như Quang Dũng). Cuộc sống của họ khó khăn, bị bệnh nặng mà không có thuốc, nhiều người chết vì sốt rét hơn là trong chiến trận. Mặc dù vậy, họ vẫn sống lạc quan, chiến đấu mạnh mẽ. Vượt qua mọi khó khăn của chiến tranh và cuộc sống khó khăn, họ vẫn giữ được phẩm chất thanh lịch, tinh tế, yêu đời và mang trong mình nét lãng mạn.
Bài thơ 'Tây Tiến' đặc sắc với hai điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần hùng tráng.
Sự lôi cuốn của cảm hứng lãng mạn thể hiện trong 'cái tôi' đong đầy cảm xúc của nhà thơ. Nó khám phá giới hạn trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, thủ pháp đối lập để làm nổi bật điều phi thường, tạo ra ấn tượng mạnh về vẻ hùng vĩ và vẻ đẹp tuyệt vời.
Thiên nhiên Tây Bắc được tái hiện qua bút lãng mạn của Quang Dũng, nổi bật với sự đa dạng và độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ nhưng ấm áp. Hình ảnh của những cô gái, những con người Tây Bắc tăng thêm vẻ huyền bí và thơ mộng cho vùng núi rừng. Chất lãng mạn chủ yếu thể hiện trong niềm đam mê cao cả, sẵn sàng hy sinh tất cả vì lý tưởng cộng đồng, cho cả dân tộc.
'Tây Tiến' không giấu diếm sự bi tráng. Nhưng đó không phải là bi đau lòng. Bi được thể hiện qua giọng điệu, âm thanh, màu sắc hùng vĩ, tràn ngập. Chất lãng mạn hòa quyện với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp đặc sắc của bài thơ. Tâm trạng chủ đạo trải dài suốt bài thơ là một cảm xúc nhớ mãi, bao phủ mọi không gian và thời gian:
'Sông Mã xa xôi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng nuí, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương phủ đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi'
Nỗi nhớ tràn ngập đơn giản, không giữ lại, nhà thơ bày tỏ bằng tiếng gọi. Hai từ 'chơi vơi' như mô tả rõ hình ảnh cụ thể của nỗi nhớ, tạo hình biểu tượng cho núi cao, sông sâu, vực thẳm, rừng mênh mông... liên tiếp xuất hiện trong các dòng thơ sau:
'Dốc lên khúc khủyu, thăm thẳm
heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi'
Khổ thơ này là một minh chứng cho 'thi trung hữ hoạ' (trong thơ có hình vẽ). Với chỉ bốn dòng thơ, Quang Dũng đã sáng tạo ra một bức tranh lớn, diễn đạt mạnh mẽ sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, nơi đoàn quân Tây Tiến hoạt động. Hai dòng thơ đầu tiên sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh như 'khúc khủyu', ' thăm thẳm', ' cồn mây', 'súng ngửi trời' để miêu tả sự nguy hiểm, hùng vĩ và độ cao của núi đèo Tây Bắc. Hai từ 'ngửi trời' được sử dụng một cách tinh tế và táo bạo, vừa đầy hồn nhiên, vừa mang đặc điểm hài hước của người lính. Núi cao có vẻ như chạm vào đám mây, và mây trở thành cồn 'heo hút'. Người lính leo lên những đỉnh núi cao như đang đi trên đám mây, súng của họ chạm tới trời. Dòng thứ ba biểu thị sự dốc núi cao, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên với chiều cao đáng kinh ngạc, nhìn xuống vực thăm thẳm. Nếu dòng thứ ba nhìn lên và nhìn xuống, thì dòng thứ tư là cái nhìn ngang. Có thể tưởng tượng cảnh những người lính dừng bước ở một dốc núi, nhìn ra xa qua không gian sương mù rừng mưa núi, những ngôi nhà như đang lơ lửng giữa đại dương. Bốn dòng thơ này hợp nhất với nhau, tạo ra một không khí đặc biệt. Sau ba dòng thơ được mô tả bằng những đường gân, dòng thứ tư được tô điểm bằng nét vẽ nhẹ nhàng (dòng thứ tư hoàn toàn thanh). Quy luật này tương tự như cách sử dụng các gam màu trong hội họa: giữa các gam màu nóng, tác giả thêm vào một gam màu lạnh để làm dịu đi, như cách nó tạo sự mát mẻ cho toàn bộ khổ thơ.
Vẻ hoang dã và dữ dội của núi rừng Tây Bắc, đầy rẫy bí mật kinh ngạc, tiếp tục được nhà thơ khám phá. Nó không chỉ mở ra theo chiều không gian mà còn theo chiều thời gian, luôn là nguy cơ kinh khủng đối với con người.
'Buổi chiều oai linh, thác gầm vang lên
Mỗi đêm, Mường Hịch, cọp đùa giỡn với người'
Núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và hiểm trở, trong bức tranh của Quang Dũng, xuất hiện với đủ thành phố núi, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp hung dữ, và nhiều điều khác... những địa danh lạ lẫm như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh tinh tế, và những câu thơ có những vần trắc đọc lên như một cuộc hành trình gian nan nhưng được làm dịu đi bởi những câu thơ kết thúc mỗi khổ bằng vần bằng, tạo nên bức tranh độc đáo, đa dạng của núi rừng Tây Bắc. Kết thúc bằng hai câu thơ:
'Nhớ quá Tây Tiến, cơm hương khói bồng
Mai Châu muà em thơm mùi xôi nồng'
Cảnh tượng tràn ngập ấm áp. Sau những khó khăn vượt qua rừng, qua suối, qua đèo, những người lính dừng lại, nghỉ ngơi tại một bản làng nào đó, quây quần xung quanh nồi cơm hấp sôi. Khói của cơm nấu bốc lên và hương thơm của nếp xôi làm tan biến mệt mỏi trên khuôn mặt của họ, khiến họ trở nên tươi tắn. Hai câu thơ này tạo ra một cảm giác ấm áp, êm dịu, chuẩn bị tâm hồn cho đoạn thơ tiếp theo.
Đoạn thứ hai của bài thơ khám phá một khía cạnh mới của Tây Bắc. Núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội, dần lùi về để nhường chỗ cho vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền đất này. Quang Dũng, với nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế, bộc lộ tài năng văn chương. Hồn thơ lãng mạn của ông chìm đắm trước vẻ đẹp bí ẩn của con người và cảnh vật xa xôi, phương xa. Cảnh đêm liên hoan lưả đuốc và buổi chiều sương trên sông mênh mang được mô tả mộng mơ, huyền bí:
'Doanh trại hừng sáng, đuốc hoa rực rỡ
Kià em với chiếc xiêm áo hồng
Khèn reo, nhạc buồn, điệu nhảy mềm mại
Văn Chăn trong ánh đèn lung linh'
Doanh trại sôi động khi đêm văn nghệ bắt đầu. Dưới ánh sáng đuốc lung linh, cảnh vật và con người chìm đắm trong không khí hứng khởi, sôi động. 'Kià em' thể hiện sự ngạc nhiên, phấn khích trước vẻ đẹp của cô gái trong chiếc xiêm áo hồng, khiến mọi người mê đắm. Những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc, lộng lẫy trong xiêm áo, tạo nên vũ điệu mềm mại và quyến rũ, thu hút ánh nhìn của các chàng trai Tây Tiến. Nếu đêm liên hoan mang lại không khí mê say, ngất ngây, thì cảnh sông nước Tây Bắc gợi lên cảm giác mơ hồ, lãng mạn:
'Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có cảm nhận hồn lau đọng bên bờ
Có nhớ hình bóng trên nền mặc
Trôi dòng nước, hoa đong đưa'
Không gian sông chiều rơi áo sương. Sông, bến bờ lặng lẽ, hoang sơ như thời tiền sử. Dòng sông nền cổ tích hiện bóng dáng mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền mộc. Những bông hoa rừng 'đong đưa' trên sóng nước lũ. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà gợi, khiến cảnh thiên nhiên trỗi nên sống động, huyền bí. Ông không chỉ làm hiện thị vẻ đẹp tự nhiên mà còn kết hợp với phần thiêng liêng của cảnh vật. Đọc đến đây, ta như bị mê hoặc bởi vẻ đẹp, thế giới mơ mộ, âm nhạc. Bốn câu thơ đầu như âm nhạc thôi thúc tâm hồn, làm đắm chìm người lính Tây Tiến. Đặc biệt, chất thơ và chất nhạc hòa quyện tạo nên tác phẩm khó tách rời. Trong đoạn thơ thứ ba, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng:
'Binh đoàn Tây Tiến mái tóc bay
Quân xanh màu lá oai hùng
Mắt sáng trên đường vượt biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm'
Quang Dũng tinh lọc nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạo nên tượng đài tập thể, tóm gọn nét đặc trưng của cả đoàn quân. Chất liệu bi và hùng hòa quyện, xâm nhập, nâng đỡ lẫn nhau, tạo nên vẻ đẹp bi tráng và thần thái của bức tượng. Thơ kháng chiến thường nhấn mạnh vào căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Hữu, trong 'Đồng chí', mô tả chi tiết căn bệnh này:
'Anh và tôi biết cảm giác rét lạnh
Sốt run người, trán ướt mồ hôi'
Tố Hữu vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài 'Cá nước' với hình ảnh cụ thể:
'Giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ'
Quang Dũng miêu tả khó khăn, căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhưng thông qua bút ông, không chỉ là bi kịch mà còn là cái nhìn lãng mạn. Người lính Tây Tiến, với đầu trọc, xanh xao vì đói khát, sức sống dữ dằn như con hổ. Nhưng đôi mắt giận dữ lại truyền đạt những tâm hồn rực rỡ, khao khát yêu thương. Quang Dũng tạo nên bức tượng tập thể như một biểu tượng của sự oai hùng và tâm hồn mơ mộ của họ. Bi thương không chỉ là nỗi đau, mà còn là lời hát tình yêu quê hương (Đêm mơ HN dáng kiều thơm).
'Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành'
Trong bức tranh hùng vĩ, hào hùng của thiên nhiên, cái chết và sự hy sinh của lính Tây Tiến không gì làm mờ tinh thần bi tráng. Bài thơ thứ ba truyền đạt tình cảm đau thương sâu sắc và lòng kính trọng của nhà thơ trước tinh thần hi sinh của đồng đội. Bức tranh cuối cùng, một lần nữa, làm đậm không khí chung của thời kỳ Tây Tiến và tinh thần đoàn kết của những người lính.
'Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến muà xuân ấy
Hồn về Sầm Nưa chẳng về xuôi'
Tinh thần 'nhất khứ bất phục hoàn' là sâu sắc trong tư tưởng và tình cảm của đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn và tình cảm của những người lính vẫn liên kết mạch máu với những ngày Tây Tiến đã qua. 'Tây Tiến muà xuân ấy' là khoảnh khắc một lần khó lặp lại. Lịch sử dân tộc không bao giờ lặp lại thời kỳ ấy với những tình thơ mộng, lãng mạn, hào hùng trong bối cảnh khắc nghiệt, gian khổ và khốc liệt như vậy.
>> Xem thêm nhiều Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến hay khác.
""""""-KẾT THÚC""""""-
Chúng tôi đã đề xuất Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến bài tiếp theo, khám phá thêm về vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến. Đồng thời, có những cảm nhận chân thực về không khí của cuộc kháng chiến chống Pháp. Học sinh cũng có thể tham khảo thêm về Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến, Cảm nhận bài Tây Tiến của Quang Dũng, và Bình giảng bài thơ Tây Tiến.
