Tinh thần thơ mới là một chủ đề nổi bật được Hoài Thanh thảo luận một cách sâu sắc trong phần cuối của bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”.
Sau khi chỉ ra những đặc điểm như hình thức câu thơ, nhịp điệu, tính mềm mại, cách ngắt câu, sự sáng tạo trong sử dụng từ ngữ, và cách đặt câu,... của thơ mới, ông đã nhấn mạnh rằng tinh thần của thơ mới là điều cần được chú trọng hơn. Ông đưa ra một tiêu chí là “so sánh giữa những bài thơ hay với nhau”; ông chỉ ra rằng sự thừa kế từ quá khứ là không thể tránh khỏi: “Hôm nay là kết quả của ngày hôm qua và trong sự mới mẻ, vẫn còn tồn tại một phần của quá khứ”. Vì mỗi thời đại vẫn là một phần liên tục của dòng thời gian, “để hiểu rõ hơn về những điểm đặc biệt của mỗi thời, ta cần phải nhìn vào bức tranh lớn”.
Tinh thần thơ mới theo quan điểm của Hoài Thanh thể hiện rõ nhất qua việc sử dụng từ 'tôi'. Trong thơ truyền thống, chúng ta thường gặp từ 'ta', nhưng trong thơ mới, từ 'tôi' được ưa chuộng. Mặc dù có sự tương đồng, nhưng vẫn có sự khác biệt, điều này cần chúng ta cân nhắc.
Khái niệm về bản thân là một phần của mỗi người, là sự nhận thức về bản thân. Nó mang theo một quan điểm mới: quan điểm cá nhân. Ban đầu, việc sử dụng từ 'tôi' trên các bản thi Việt Nam gây ra sự ngạc nhiên, như một điều không quen thuộc trong một môi trường mới. “Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó” lúc đầu xuất hiện trên các bản thi Việt Nam, nó xuất hiện một cách đơn độc, “với bao ánh mắt nhìn chúng một cách không thoải mái”. Ngày qua ngày, “vẻ bở ngỡ dần biến mất, được “rất nhiều người quen” chấp nhận, thậm chí cảm thấy “nó đáng thương”, “nó thật tội nghiệp!”.
Bài thơ “Tình già” của Phan Khôi, bài “Trên đường đời”, và “Vắng khách thơ” (sau đổi thành “Xuân về”) của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, vào năm 1938, tập thơ “Thơ thơ” của Xuân Diệu ra mắt. Chúng ta có thể trích dẫn hai đoạn thơ làm ví dụ để hiểu rõ hơn về “hình thức của câu thơ”, để thấy được cách mà ý thức về bản thân từ việc “bở ngỡ” ban đầu đã thay đổi như thế nào sau này?
Năm vừa qua
Anh cùng tôi
Ở nơi gần bên Mộ
Trong ngôi nhà cổ
Tôi cầm bút viết,
Chàng sáng tác thơ.
Ở sau vườn, chim oanh reo rắn rỏi,
Nhìn ra, hoa cùng khoe sắc,
Tôi dừng lại và gọi chàng:
'Này, đây! bạn! Xuân đã đến'
Chàng nhìn thấy khuôn mặt xuân rạng rỡ
Tôi nhìn thấy trái tim chàng hân hoan
(“Xuân về' - Lưu Trọng Lư)
Mỗi buổi sáng, hạnh phúc bắt đầu khi thần vui đến gõ cửa;
Tháng giêng tựa như một đôi môi gần gũi;
Tôi tràn đầy niềm vui. Nhưng vội vàng chỉ một nửa;
Tôi không chờ đợi nắng hạ mới trải nghiệm mùa xuân...
Trong xã hội Việt Nam từ xưa, cá nhân không tồn tại, chỉ có cộng đồng: lớn là quốc gia, nhỏ là gia đình. Cá nhân, cái bản sắc cá nhân, 'là phần nhỏ bé tan biến trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả'. Các tài năng (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương), 'đôi khi họ cũng lồng ghép hình ảnh của mình vào trong văn thơ', thậm chí trong tác phẩm của họ, họ cũng sử dụng từ 'tôi' để giao tiếp với người khác' (1). Trong văn chương cũ, thường chỉ có từ 'ta', các nhà thơ 'ẩn mình sau từ 'ta' để nói lên một phần tinh thần chung của nhiều người'.
Rượu đến đáy chai ta sẽ cạn,
Nhìn thấy phú quý như giấc mơ.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Dừng bước giữa thiên nhiên hoang sơ,
Một khoảnh khắc riêng ta với tự nhiên.
Gặp lại ta, xuân không hề xa lạ
Tóc phai nhưng lòng vẫn nguyên vẹn
Kể từ khi biết đến xuân bốn mươi chín năm trước
Rượu vẫn là niềm vui non nước không thay đổi
Đến khi xuân về, tuổi đã năm mươi
Đếm ngàn xuân, đời vẫn còn nửa đường
Và sau này, còn bao nhiêu mùa xuân nữa
Chẳng cần hỏi trời về điều gì
Có rượu đào xuân, ta sẵn lòng uống...
(Gặp xuân- Tản Đà)
Tâm trạng trong thơ thường ẩn chứa những bi kịch. Nó đề cập đến nỗi đau, sự thảm hại trước 'cay đắng của cuộc sống” mà các nhà thơ phải đối mặt. Nó cũng nhắc đến viễn cảnh sống trong giấc mơ tiên ('Tiếng sáo Thiên Thai' – Thế Lữ). Nó cũng nói về nỗi buồn, nỗi cô đơn ('Say đi em', 'Phương xa' - Vũ Hoàng Chương). Hoặc những chuyến phiêu lưu trong thế giới tình cảm:
Tình yêu không ghé qua cửa đau thương
Nhớ về những đêm trống trải không có ánh trăng
(Một mùa đông - Lưu Trọng Lư)
Có khi cuồng điện, có khi say mê, có khi lạc lõng, có khi mơ mộng buồn bã:
Cho tôi một hành tinh lạnh lẽo,
Một ngôi sao lẻ loi ở cuối bầu trời xa xôi!
Để tôi có thể trốn tránh
Những lo âu, đau khổ và nỗi buồn.'
Chế Lan Viên
Buổi chiều đông dần tàn, lạnh từ bầu trời cao trên
Không có ngọn lửa ấm áp, chắc chắn tâm hồn buồn biết bao.
Huy Cận
Trăng vẫn sáng, trăng vẫn xa, nhìn rộng lớn quá kìa!
Hai người, nhưng vẫn cảm thấy cô đơn
Xuân Diệu
Cái tôi làm cho tâm hồn thơ trở nên đa dạng, phong phú với sắc thái của thơ mới, đồng thời mang trong đó những bi kịch của thơ mới. Cách Hoài Thanh phân tích vừa tổng quát vừa cụ thể, vô cùng tinh tế và tài năng. Sử dụng từ ngữ chính xác, điệp từ và tương phản để tạo ra âm nhạc và cảm xúc, khi đọc lên thật sự hấp dẫn:
'Cuộc sống của chúng ta nằm trong khung 'tôi'. Khi mất mát bề rộng, chúng ta tìm kiếm bề sâu. Nhưng càng đi sâu, càng trở nên lạnh lẽo. Chúng ta bay lên cùng Thiên Lữ, phiêu lưu trong thế giới tình yêu cùng Lưu Trọng Lư, cuồng điên với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, say mê cùng Xuân Diệu. Những giấc mộng đã tan, tình yêu không thể bền vững, sự điên cuồng đã tan biến, và cảm giác say mê vẫn còn cô đơn. Chúng ta trở về trong cô đơn và buồn rầu cùng với tâm hồn của mình và Huy Cận'.
Việc nắm bắt bản chất của thơ mới, và việc viết ra như vậy đòi hỏi sự tài năng. Hoài Thanh như dẫn dắt độc giả đi sâu vào tâm hồn của thơ mới:
'Dù thực hay mơ, trời vẫn lắng nghe theo tâm hồn ta.
Chưa từng có thời kỳ thơ Việt Nam buồn và đặc biệt là náo nhiệt như vậy. Với lòng tự hào, ta đã mất đi cái yên bình của quá khứ'.
Một đặc điểm nổi bật của thơ mới là sự hiện đại hóa ngôn ngữ Việt. Câu thơ linh hoạt, tự nhiên. Lời thơ đơn giản, dễ hiểu, phong phú cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã truyền đạt tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã sử dụng hình ảnh của 'tấm lụa' và 'tấm hồn trong trắng' để biểu đạt tình cảm đẹp đẽ đó:
'Bi kịch đó, họ đã ấn vào tiếng Việt. Họ yêu thương sâu sắc ngôn ngữ mà trong hàng thế kỷ đã chia sẻ cùng với cha ông. Họ chứa đựng tình yêu quê hương trong ngôn từ của tiếng Việt. Họ nghĩ rằng, tiếng Việt là một tấm lụa đã ghi lại hồn của những thế hệ đã qua. Đến lượt của họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn trong trắng đó để gửi đi những nỗi lo của mình'.
Trong phần kết của bài tiểu luận 'Một thời đại thi ca', Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng thể hiện hy vọng với thơ mới và các nhà thơ mới 'dù thất vọng nhưng vẫn trỗi dậy hy vọng'. Thơ mới cũng như các nhà thơ mới sẽ tiếp tục và phát triển tinh thần truyền thống, kế thừa những giá trị tốt đẹp của thơ cổ điển Việt Nam, “tìm lại những gì vĩnh cửu để bảo đảm cho ngày mai”.
Điệp ngữ 'Chưa từng như thế này...’! được nhấn mạnh ba lần làm cho câu văn trở nên cảm xúc, ấm áp.
Trong những năm 1943, 1944, thơ mới dường như bị 'tạm dừng lại'. Nhưng sau đó, với sự nổi lên của Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Pháp gay gắt đã thúc đẩy sự phát triển của thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,... trở thành những chiến binh trên mặt trận văn hoá, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Sau bảy thập kỷ, khi đọc tác phẩm 'Thi nhân Việt Nam' của Hoài Thanh, ta hiểu sâu hơn về thơ mới, ta yêu thêm những nhà thơ tiền chiến trong thời đại của 'thi ca cuộc đời'.
Lời mời thưởng trà
Quả cau nhỏ bé, mảnh trâu thơm phức.
Này những vần thơ của Xuân Hương đã lên đời.
Có lẽ đó chính là duyên số đưa đẩy chúng ta gặp nhau.
Đừng phai nhạt như màu xanh lá, không tàn như màu vôi.
Hồ Xuân Hương
Bản hòa âm đầy cảm xúc
Toàn bộ vũ trụ nhỏ bé bên trong lòng.
Ông Hi Văn tài năng đã lọt vào chiếc lồng.
Từ khi là thủ khoa, đến khi là Tham tán, rồi lại là Tổng đốc Đông
Với khả năng chiến lược, ông đã trở thành một tay cao cả.
Nguyễn Công Trứ
Đêm u ám
Bầu trời im lặng, biển cạn không mưa từ nguồn.
Mỗi đêm tối, lòng tôi luôn bao trùm bởi nỗi buồn.
Trong giấc ngủ, cuộc sống đổi thay, kẻ nào biết được?
Những tiếng chuông từ chùa xa vang dậy đã báo hiệu bình minh.
Tú Xương
Hành trình của tôi