1. Đoạn văn mẫu cảm nhận bài 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 4
Vẻ đẹp của hồn quê không thể thiếu âm hưởng của lời quê. Nguyễn Bính đã làm sống dậy bản sắc quê hương qua từng câu chữ. Cảnh vật buổi tối được miêu tả một cách quê mùa: “Bốn bên hàng xóm đã lên đèn”, hay khoảng cách đường xá được đo lường bằng cách giản dị: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”. Những câu thành ngữ được dùng để thể hiện tâm trạng: “Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn”, hay nỗi cô đơn của người nói được diễn tả qua hình ảnh cụ thể: “Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh / Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”. Cảnh mưa xuân được miêu tả với sự tinh tế: “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay”, và sự ước đoán thời gian: “Anh ạ mùa xuân đã cạn ngày”. Tất cả những yếu tố này đều mang đậm vẻ quê hương. Lời quê không chỉ phản ánh tâm tư của người dân mà còn gìn giữ bản sắc quê hương trong lòng mỗi người. Vai trò của cảnh trong bài thơ là rất quan trọng, góp phần tạo nên giá trị độc lập của nó. Dù văn chương có thể gửi gắm cả tình cảm lẫn cảnh vật, nhưng tác giả đã khéo léo kết hợp để không phân biệt rõ ràng đâu là chính, đâu là phụ.

2. Đoạn văn mẫu cảm nhận về bài thơ 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 5
Bài thơ 'Mưa xuân II' của Nguyễn Bính mang đến cho tôi nhiều xúc cảm sâu lắng. Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài được thể hiện với sự giản dị và mộc mạc, nhưng cũng đầy chất thơ và sức sống. Cơn mưa xuân như làm cho mọi thứ sống dậy sau một mùa đông giá lạnh. Các cây cam, cây quýt và cỏ dại đều đang hưởng thụ không khí xuân tươi mới, với hoa lá đua nở xanh tươi. Loài vật cũng hòa mình vào không khí mùa xuân, bươm bướm bay lượn không sợ ướt cánh, và nhện dệt tơ trắng muốt. Mùa xuân đến khiến con người cũng trở nên vui tươi và nhộn nhịp hơn, với cảnh người dân đi hội, không khí sôi động. Bức tranh mùa xuân còn thêm phần sinh động với hình ảnh đàn cò trắng bay và đoàn tàu lướt qua. Tất cả đều hoạt động liên tục, nhưng mùa xuân mang đến một sự nhộn nhịp và hứng khởi đặc biệt. Cơn mưa xuân càng làm cho cảnh vật thêm phần rạng rỡ. Qua bài thơ, tác giả bộc lộ sự bâng khuâng và xao xuyến trước vẻ đẹp thiên nhiên trong cơn mưa xuân.

3. Đoạn văn mẫu cảm nhận về bài thơ 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 6
Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ hiện lên thật tươi mới và đầy sức sống. Mùa xuân, với sự hồi sinh của đất trời và vạn vật sau những ngày đông giá, cũng làm sống dậy nhịp đập rạo rực trong lòng người. Mùa ăn chơi, tháng dài ngày rộng, cùng tiếng trống chèo quen thuộc đã vang lên trên các sân đình. Hội chèo làng Đặng ở thôn Đoài... Những địa danh như vậy gợi nhớ đến vẻ đẹp của quê hương. Những đám hội ở thôn quê không chỉ là những dịp để thưởng thức nghệ thuật mà còn là cơ hội gặp gỡ, giao lưu và hẹn hò của các cặp đôi. Từ cảnh thiên nhiên đó, tác giả mở ra cho chúng ta một câu chuyện tình mới mẻ, diễn ra trên nền của một làng quê mùa xuân.

4. Đoạn văn cảm nhận bài 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 7
Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên miền Bắc Việt Nam, từ đèo Hải Vân trở ra. Trong bài thơ, ta cảm nhận rõ nét đặc trưng của thời tiết và khí hậu miền Bắc, khác hẳn với miền Nam do cấu trúc địa lý của đất nước, đặc biệt vào mùa đông - xuân. Cảnh vật giá lạnh, ẩm ướt với bầu trời thấp và âm u, loài hoa xoan màu trắng tím nở thành chùm như hòa quyện vào sương mù. Hơi nước từ hồ, ao, mơ hồ như mây và mưa, tạo nên một vẻ đẹp huyền ảo. Mưa bụi, mưa phùn, hay mưa bay, mưa lay phay, không làm ướt áo hay đất, mang đến một vẻ đẹp mê hồn, đặc trưng của mùa xuân miền Bắc mà người đi xa vẫn nhớ nhung. Cảnh sắc nơi đây không chỉ là nền cho câu chuyện tình mà câu chuyện tình cũng làm cho cảnh vật thêm phần sinh động, hòa quyện vào nhau như xác với hồn, tạo nên bức tranh quê chân thực và đầy ấn tượng của Nguyễn Bính.

5. Đoạn văn cảm nhận bài 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 8
Mưa xuân thường đến một cách nhẹ nhàng và dịu dàng, như làn gió tươi mới làm xao xuyến lòng người. Khi mưa xuân rơi, hoa xoan rụng xuống từng lớp, tạo nên bức tranh quê tuyệt đẹp trong tiết trời ấm áp của mùa xuân. Trong không gian hoa xoan tím rực rỡ và làn mưa xuân lất phất, hội chèo làng Đặng nhẹ nhàng di chuyển qua ngõ, tiếng trống chèo ở thôn Đoài vang lên, khiến cô thôn nữ cảm thấy bâng khuâng và xao xuyến. Những hương sắc và âm thanh ấy chính là linh hồn của vùng quê thanh bình. Hoa xoan và mưa xuân là hình ảnh gần gũi, bình dị của làng quê, thường xuất hiện trong thơ ca dân tộc. Mưa xuân là bản tình ca nhẹ nhàng và u buồn, nỗi buồn âm thầm lắng sâu vào lòng. Nhà thơ đã khắc họa một không gian nghệ thuật gần gũi, giản dị, để diễn tả những rung động vui buồn, xôn xao trong lòng thiếu nữ giữa mùa hội xuân và những khát khao yêu thương.

6. Bài văn phân tích bài 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 1
Nhắc đến mùa xuân là nhắc đến những bức tranh thiên nhiên đầy sức sống và tươi mới. Nguyễn Bính đã mang đến một mùa xuân tràn đầy nhựa sống qua tác phẩm “Mưa xuân II”. Bài thơ diễn tả những cảm xúc giản dị và chân thật mà tác giả cảm nhận được khi mùa xuân về.
Mưa xuân chính là dấu hiệu của mùa xuân. Mưa rơi nhẹ nhàng, bay bay, lướt qua từng cành cây, lá cây, như đang đánh thức mọi loài cây sau những ngày đông lạnh giá. Những từ láy như “tà tà”, “thưa thưa”, “phau phau” cho thấy cảnh vật đang hòa quyện với mùa xuân, cảm nhận sự mát mẻ và sức sống mới mà mùa xuân mang lại. Vần thơ “đưa” và “thưa” miêu tả mưa xuân bay trong gió, lan tỏa hương thơm và sức sống khắp nơi. Mặc dù mưa xuân ít và không rõ ràng, nhưng cái mát lành mà nó mang lại vẫn luôn hiện diện trong không khí.
Những hình ảnh như tơ nhện, bươm bướm, hay những người đi trẩy hội dường như không nhận ra sự xuất hiện của mưa xuân. Nhưng tiếng trống hội đình chỉ vang lên khi mùa xuân đến. Thiên nhiên thay đổi từ cằn cỗi trong mùa đông, nay cây cam bắt đầu trổ mầm, cỏ nở hoa xanh. Khi thiên nhiên thay đổi, con người cũng cảm nhận được sức sống mới. Con người gắn bó với thiên nhiên, cùng cảm nhận những chuyển biến và sự ban tặng tốt lành của mùa xuân. Tác giả diễn tả từng cảm xúc và sự lưu luyến trong từng hạt mưa xuân. Nguyễn Bính từng chia sẻ rằng: “Tôi yêu và trân trọng những gì thiên nhiên đem lại cho con người, nó len lỏi và hiện hữu trong cuộc sống của tôi”.
Đọc “Mưa xuân II” của Nguyễn Bính, ta không thể quên sự sống mãnh liệt và mưa xuân nhẹ nhàng lan tỏa trong từng cảnh vật và con người. Con người luôn trân trọng thiên nhiên, cũng như thiên nhiên luôn mang đến những điều kỳ diệu cho cuộc sống.

7. Bài viết phân tích tác phẩm 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 2
Nguyễn Bính từng thì thầm về tác phẩm của mình rằng: Tôi yêu và trân quý lắm những gì mà thiên nhiên đem lại cho con người, nó len lỏi, nó hiện hữu trong cả cuộc sống của tôi. Cũng có lẽ vì thế trong cuộc đời cầm bút, thiên nhiên, đặc biệt mùa Xuân nơi đồng quê, gốc rạ, hàng cau… của quê hương miền Bắc bao giờ cũng để lại trong tâm khảm thi nhân những xúc cảm khó quên.
Trong văn học Việt Nam có không ít những thi nhân cũng đã từng nặng lòng với mùa Xuân, đem vào thơ của mình những vần thơ xuân độc đáo. Xuân Diệu “thi sĩ của mùa Xuân”, người nhìn thấy xuân qua khi xuân vừa tới, xuân già khi xuân hãy còn non lại nhận ra mùa Xuân đến với “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm/ Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu”. Trong trái tim của vị thi sĩ yêu đời đến mức đắm say này, tình xuân luôn đầy ăm ắp, lai láng.
Đoàn Văn Cừ lại có khả năng tái hiện chân thực cảnh sinh hoạt ngày Tết với bánh chưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng, với những phong vị dân gian của cô yếm thắm che môi cười, em bé nép đầu bên mẹ, anh hàng tranh, thầy khóa hí hoáy viết thơ xuân... (Chợ Tết). Hàn Mặc Tử cũng có những ý thơ về mùa Xuân thật trong trẻo, khiến độc giả vẫn còn ngân nga mãi: “Trong làn nắng ửng: Khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang...”(Mùa Xuân chín).
Nhưng trong phong trào thơ ca hiện đại, từ những ngày đầu làm nên “Cuộc cách mạng trong thi ca” cho đến sau này, người viết nhiều về mùa Xuân hơn cả có lẽ là Nguyễn Bính. Nguyễn Bính có hẳn những thi phẩm lấy nhan đề từ xuân như Rượu xuân, Xuân về, Nhạc xuân, Xuân, Vườn xuân, Thơ xuân, Mùa Xuân xanh, Xuân tha hương, Gái xuân, Xuân vẫn tha hương, Xuân thương nhớ, Xuân về nhớ cố hương,... Và hồn thơ ấy vẫn mãi vẹn nguyên, trong trẻo, mang đậm hồn quê chưa bao giờ thay đổi:
Mưa xuân (II)
Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa
Cây cam cây quít cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.
Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân
Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần
Bươm bướm cứ bay không ướt cánh
Người đi trẩy hội tóc phơi trần.
Đường mát da chân lúa mát mình
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh
Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng
Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.
Núi lên gọn nét đá tươi màu
Xe lửa về Nam chạy chạy mau
Một toán cò bay là mặt ruộng
Thành hàng chữ nhất trắng phau phau.
Bãi lạch bờ dâu sẫm lá tơ
Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.
(1958)
Mùa Xuân trong thơ ca thật quen thuộc với những cành đào, cánh chim én đưa thoi giữa bầu trời trong sáng hay cánh chim chiền chiện liệng rợp trời, những làn gió se sắt, hanh hao còn sót lại của ngày đông. Đi vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, ta như được hít thở không khí êm dịu, thảnh thơi giữa những mảnh vườn làng, bến sông quê, cái náo nức của những hội hè, đình đám, như được sống cùng trái tim yêu đằm thắm, mộc mạc của những anh trai làng, những cô thôn nữ. Nhưng có lẽ điều làm nên chất riêng và khí vị của mùa Xuân đất Bắc vẫn là mưa xuân.
Mưa xuân I được viết năm 1936, khi Nguyễn Bính 18 tuổi. Đó là một trong những bài thơ ở buổi đầu tiên của một hồn quê sáng trong như lụa. Chẳng thấy ở đây những vất vả lo toan thường nhật, những tang thương khắc khổ của xã hội nông thôn Việt Nam trong chế độ thực dân nửa phong kiến, khi “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, nơi “Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm” của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ.
Mưa xuân II ra đời sau đó 22 năm, khi nhà thơ tròn 40 tuổi, khi đã trải qua nhiều biến thiên, dâu bể của một đời người, từ Bắc vào Nam rồi lần hồi từ Nam về đất Bắc. Nguyễn Bính từng đã trải qua những năm tháng tha hương từ Hà Nội nghìn năm văn hiến, lúc ngược tàu lên Phú Thọ, đến cố đô Huế cổ kính rồi vào Sài Thành hoa lệ.
Gần hai mươi năm trời sống biền biệt trong cảnh tha hương, tâm hồn chân quê ấy luôn thường trực khắc khoải, da diết nỗi nhớ cố hương. Những tháng ngày lang bạt ấy, Nguyễn Bính đã để lại cho đời những vần thơ lắng đọng, ngậm ngùi, tủi hờn, xót xa: Giang hồ sót lại tình tôi/ Quê người đắng khói, quê người cay men (Anh về quê cũ). Hay Chén rượu tha hương trời: đắng lắm/ Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông (Xuân tha hương).
Mưa mùa Xuân của đất Bắc - những hạt mưa li ti, bay lất phất trong gió, mỏng manh chưa đủ để làm ướt áo nhưng lại khiến lòng người tơ vương. Trong thơ xuân của mình, Nguyễn Bính luôn hướng đến việc khắc họa một mùa Xuân đậm hơi thở của xuân đất Bắc. Những giọt mưa xuân đó cũng đã từng không ít lần nhỏ xuống hồn thơ nhạy cảm của Nguyễn Bính những chấm lạnh:
Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa
Cây cam cây quít cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.
Bài thơ gồm 7 khổ, được viết theo thể thơ 7 chữ. Không cần ngày tháng cụ thể, chỉ biết đó là một buổi chiều thoang thoảng gió với những làn mưa bụi rắc thưa thưa. Mưa không làm ướt áo, mưa không đủ nặng hạt để làm những đàn bươm bướm bay ướt đôi cánh mỏng. Nhưng mưa xuân lại trở thành dấu khắc của thời gian đánh thức trong tâm hồn nhân vật trữ tình những nỗi niềm xao xuyến. Dưới làn mưa xuân giăng giăng ấy bức tranh cảnh vật nơi chốn làng quê bỗng trở nên chuyển đổi, sinh động, bừng sức sống.
Những cây cam, cây quýt trong vườn nhà xòe những chiếc lá nhỏ xinh như bàn tay người con gái thôn quê e ấp. Màu xanh của lá hòa với sắc trắng của hoa cùng những hạt mưa bụi lất phất, dịu dàng tạo nên vẻ đẹp rất riêng của đất Bắc trong thời khắc đất trời chuyển giao. Những hạt mưa bụi phảng phất, nghiêng nghiêng như làm chênh vênh cả không gian. Từng hạt mưa xuân phơi phới, li ti thấm ướt tràng áo xanh dịu dàng khoác lên đất trời tấm màn voan mỏng. Nguyễn Bính đã thể hiện một khả năng quan sát, chiêm nghiệm tinh tế, thần tình.
Bức tranh thôn quê được dệt bằng những hình ảnh và chi tiết hết sức sống động với không gian được mở ra với nhiều tầng bậc từ vườn nhà đến ruộng đồng, ngõ xóm.
Đường mát da chân lúa mát mình
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh
Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng
Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.
Nguyễn Bính yêu thôn quê một cách kỳ lạ. Dưới ngòi bút của ông những hình ảnh rất đỗi bình thường, quen thuộc như mưa, gió, hoa lá, cây cối, đồng ruộng tạo nên một không gian thanh bình nhưng cũng tràn đầy sức sống. Bạn đọc thấy được sự hòa hợp, tươi đẹp và hồn hậu của bức tranh thiên nhiên chốn quê nơi này. Những cây cối, hoa lá, cỏ dại, ruộng đồng, những đàn trâu bò thong thả dưới cơn mưa… được miêu tả một cách sống động, sắc nét, chi tiết, tạo nên bức tranh đa màu, đa sắc, sinh động.
Niềm vui ngày xuân hiện diện trong mỗi ngôi nhà, từng xóm nhỏ. Đặc biệt là trong ánh mắt, nụ cười, trong những tấm áo mới, trên đôi má hồng. Sự nhận diện sắc xuân trong thơ Nguyễn Bính thật đặc biệt, độc đáo. Tín hiệu mùa Xuân không chỉ có trong cái rộn rã của đất trời, trong sự đâm chồi nảy lộc của cây cối mà hơn hết mùa Xuân hiện hữu trong từng ánh mắt, màu má của những cô gái, chàng trai, những đứa trẻ hồn nhiên, chân thật.
Như vậy, vẻ đẹp của mùa Xuân, khí sắc của mùa Xuân trong thơ Nguyễn Bính là sự hòa quyện, đan cài của xuân đất trời và xuân lòng người. Để rồi trong bức tranh xuân ấy, người đọc như hình dung được những hoạt động con người nơi chốn quê hương, phong vị miền Bắc với những lễ hội mùa Xuân rộn ràng. Người thì đi trẩy hội, không gian vang tiếng trống; người thì làm việc đồng áng trên cánh đồng mênh mông, những đứa trẻ vui đùa với nhau vang lên những thanh âm rít rít. Tất cả tạo nên bức tranh êm đềm ấm nồng sự sống hơn bao giờ hết vừa đậm chất họa, vừa mang chất nhạc.
Qua ngòi bút thi nhân, mùa Xuân làm con người trẻ thêm ra, để rồi dường như độc giả được quay trở về với tuổi thơ, với quá khứ một thời trong trẻo và như được hòa mình vào thiên nhiên cảnh vật, con người hiền hậu, bình dị nơi đây. Đọc thơ Nguyễn Bính tâm hồn ta dường như trong lành hơn, bình yên hơn, tạm gác lại mọi lo toan, bận rộn, bộn bề của cuộc sống thường nhật để được cùng Nguyễn Bính trở về một vùng thôn quê dân dã đậm nét tâm hồn Việt.
Bãi lạch bờ dâu sẫm lá tơ
Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.
Cái náo nức của lòng người hòa quyện với mát rượi của mưa xuân, sắc xanh của lá mạ, trắng ngần của hoa cam. Xuân sang ngõ xóm, đường làng, thửa vườn, hàng cây và cả lòng người nữa tất thảy đều bừng dậy sức sống. Sự cộng hưởng của các từ ngữ với gam màu tươi sáng như “lúa mát mình”, “hoa xanh”, “mặt ruộng trắng phau phau”, “sẫm lá tơ”, “sương phảng phất”… tạo nên bức tranh thôn quê vào mùa Xuân căng tràn nhựa sống, đầy màu sắc tươi mới. Và để cảm nhận được tất thảy những vẻ đẹp đó, chắc hẳn Nguyễn Bính đã phải ở trong trạng thái yên tĩnh lắm, say đắm lắm mới có thể tạo nên bức tranh đầy ấn tượng như thế.
Xuân trong thơ Nguyễn Bính không ồn ào, náo nhiệt, không rực rỡ sắc màu mà dung dị, thanh thoát, đằm thắm, thiết tha. Nguyễn Bính đã gọi hồn cốt mùa Xuân đất Bắc mỗi độ Tết đến xuân về đúng như cách mà thi sĩ từng bộc bạch: Tình xuân chan chứa, ý xuân đầy.
Đến đây ta như càng cảm nhận được tâm trạng náo nức, vui tươi của sự sum vầy, đoàn tụ. Càng xót xa khi đọc những cảm thức li hương trong những ngày xuân đậm niềm bơ vơ nơi xứ lạ trong không gian quán trọ chỉ còn đọng lại nỗi niềm khắc khoải: Quán trọ xuân này hoa lại nở/ Lại ngồi xem Tết, Tết người ta (Quán trọ).
“Mưa xuân II” là cái tình của một thi sĩ đã trải qua những tháng ngày xa cách nên nó trở nên mãnh liệt, thiêng liêng nhưng cũng ngọt ngào, sâu lắng đong đầy khi được tận mắt chứng kiến xuân quê hương. Dẫu xuân giờ đây của quê hương hay xuân tha hương với Nguyễn Bính vẫn vẹn nguyên tình cảm gắn bó, tha thiết với quê nhà.
Đó không chỉ là sự rộn ràng của đất trời, của lòng người, mà là sự chân thực, nhiệt thành của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống. Để rồi trong phong trào thơ ca hiện đại, Nguyễn Bính trở thành nhà thơ chiếm lĩnh được tâm hồn, tình cảm của một số lượng độc giả lớn. Làm nên sức hấp dẫn đặc biệt ấy là bởi thi sĩ đã đem đến cho vườn thơ Việt Nam hiện đại một chất giọng riêng: Dung dị, hồn nhiên, cái trong trẻo bản năng rất xa lạ với những cầu kì đẽo gọt mà cốt lõi của nó như nhà văn Tô Hoài từng cảm nhận:
Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vẫn là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê. Và cũng như một mối lương duyên, như một định mệnh của một tình quê thiết tha ấy khi Nguyễn Bính ra đi vào chiều 29 Tết Bính Ngọ (1966) ở tuổi còn phơi phới sức xuân trong niềm tiếc nuối vô hạn sau khi người thi sĩ ấy kịp để lại cho đời Còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân.

8. Phân tích bài thơ 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - Mẫu 3
Có những bài thơ đọc qua một lần rồi lại mau chóng quên, nhưng cũng có những bài thơ, dù thời gian trôi đi, tuổi tác tăng thêm, và cuộc sống có bao nhiêu thăng trầm, vẫn luôn ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đó chính là những tác phẩm vĩnh cửu, đi cùng năm tháng. Bài thơ “Mưa xuân” của Nguyễn Bính là một ví dụ điển hình, luôn khiến người đọc qua các thế hệ cảm nhận sâu sắc mùa xuân Bắc Bộ với mưa xuân, hoa xoan, âm thanh hát chèo và cả tình yêu của cô gái làng quê hòa quyện với hương vị mùa xuân.
Những câu thơ đầu tiên đưa người đọc vào không gian mùa xuân và làng quê Bắc Bộ đầy thân thuộc, với hoa xoan nở, mưa xuân rơi và âm thanh của những điệu hát dân ca như chèo, trống quân trong các hội làng vì “Tháng giêng ngày rộng tháng dài”, “Tháng giêng là tháng ăn chơi”.
“Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ nhỏ như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa”.
Nhân vật trữ tình là một cô gái quê làm nghề dệt cửi, sống cùng mẹ già, với tâm hồn trong sáng “như cây lụa trắng” và “Mẹ già chưa bán chợ làng xa”. Cô gái này vốn e ấp, dịu dàng và kín đáo. Nhưng khi mùa xuân đến với mưa bụi nhẹ và tiếng trống chèo rộn ràng, lòng cô bỗng dậy lên sự xốn xang: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay - Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy - Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ - Mẹ bảo: thôn Đoài hát tối nay”. Ở đây, thiên nhiên trở thành cầu nối giữa con người và cảm xúc: “Lòng thấy giăng tơ một mối tình - Em ngừng thoi lại giữa tay xinh - Hình như hai má em bừng đỏ - Có lẽ là em nghĩ đến anh… Thế nào anh ấy chẳng sang xem”… Cô gái quê e ấp giờ đây: “Em xin phép mẹ vội vàng đi”… Cảm giác hồi hộp và háo hức của tình yêu có thể gợi nhớ đến các nhân vật tình yêu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và các bài ca dao xưa: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” và “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo - Thất bát sông cũng lội, ngũ cửu lục đèo cũng qua”, “Yêu nhau chẳng ngại đường xa - Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều”.
Tôi luôn muốn dừng lại ở những câu thơ này để cảm nhận, bởi mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Của những cô gái quê: “Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh - Tôi đợi người yêu đến tự tình - Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy - Bắt đầu là cái thắt lưng xanh” - (Mùa xuân xanh) và “Đã thấy xuân về với gió đông - Với trên màu má gái chưa chồng - Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm - Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong” (Xuân về). Cô gái quê đi xem hát chèo trong hội làng, mặc dù trời mưa bụi không làm ướt áo, vẫn mong tìm người yêu “Thôn Đoài vào hội hát thâu đêm - Em mải tìm anh chẳng thiết xem - Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh - Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”.
Câu chuyện tình yêu qua thơ làm xao xuyến lòng người đọc: “Chờ mãi anh sang anh chả sang - Thế mà hôm nọ hát bên làng - Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn - Để cả mùa xuân cũng lỡ làng”. Motif tình yêu đơn phương lặp lại nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính với các cung bậc cảm xúc khác nhau: “Bảo rằng cách trở đò giang - Không sang là chẳng đường sang đã đành - Nhưng đây cách một đầu đình - Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?” và “Cô hái mơ ơi, cô gái ơi - Chả trả lời nhau lấy một lời - Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng - Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi”. Tình cảm biến đổi từ hồi hộp, háo hức đến buồn tủi: “Mình em lầm lụi trên đường về - Có ngắn gì đâu một dải đê - Áo nhỏ che đầu mưa nặng hạt - Ngại ngùng thêm tủi với canh khuya”. Tác giả khéo léo so sánh hai tâm trạng trái ngược trước cùng một cảnh: “Mưa bụi nên em không ướt áo -Thôn Đoài cách có một thôi đê” và “Có ngắn gì đâu một dải đê - Áo nhỏ che đầu mưa nặng hạt”. Mùa xuân cũng vậy, với mưa xuân, hoa xoan và “hội chèo làng Đặng đi qua ngõ”… từ những sứ giả của hy vọng giờ trở nên lạnh giá, tàn tạ: “mưa xuân đã ngại bay - Hoa xoan đã nát dưới chân giày - Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ - Mẹ bảo: mùa xuân đã cạn ngày”.
Những nhân vật trong thơ Nguyễn Bính, dù trải qua tình yêu đơn phương hay tuyệt vọng, vẫn toát lên cách ứng xử văn hóa nhẹ nhàng. Anh lái đò thất tình định bỏ nghề nhưng lại từ bỏ ý định: “Lang thang anh dạm bán thuyền - Có người trả chín quan tiền lại thôi” (Anh lái đò); một chàng trai thất tình oán hờn mà không nặng lời: “Em đã sang ngang với một người - Anh còn trồng cải nữa hay thôi? - Đêm qua mơ thấy hai con bướm - Khép cánh tình chung ở giữa trời” (Hết bướm vàng). Trong bài thơ này, cô gái quê lỗi hẹn vẫn nhẫn nại chờ đợi: “Anh ạ mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây - Bao giờ hội Đặng về ngang ngõ - Để mẹ em rằng: hát tối nay”. Chờ đợi là hy vọng! Khác với nỗi lòng của chàng trai trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử khi mọi chuyện đã an bài, “ván đã đóng thuyền” với: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy - Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” và “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín - Lòng trí bâng khuâng bỗng nhớ làng - Chị ấy năm nay còn gánh thóc - Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. “Mưa xuân” kết thúc, nhưng để lại trong lòng người đọc một câu chuyện tình yêu với nỗi buồn nhẹ nhàng, xao xuyến, bâng khuâng và một hy vọng da diết!
Đọc “Mưa xuân” của Nguyễn Bính, ta như được trở về với miền quê Bắc Bộ thanh bình, có mưa xuân, hoa xoan, tiếng trống chèo rộn ràng và tình yêu đầu trong sáng, nhẹ nhàng. Thời gian, không gian tràn đầy tiết xuân, các địa danh như “Hội chèo làng Đặng”, “Thôn Đoài hát tối nay” như những hình ảnh mơ màng của quê hương Bắc Bộ. Thơ lục bát mang âm hưởng ca dao, dân ca, với từ láy gợi cảm như “phơi phới”, “lớp lớp”, “rụng rơi”, cùng thành ngữ và hình ảnh đặc trưng của quê hương tạo nên một tác phẩm đậm đà tình quê của “nhà thơ chân quê” tài hoa Nguyễn Bính. “Nhà thơ này yêu thôn quê một cách kỳ lạ, cái tình yêu ấy làm cho thơ ông, ở những câu bình dị nhất, vẫn có sức lôi cuốn, vẫn có cái duyên xao động lòng người. Dưới mắt, những cảnh sắc thật thông thường ở thôn quê cũng gợi cảm, đâu chỉ ánh trăng mới đẹp mà cảnh mưa phùn, hoa xoan…vẫn làm ta xúc động nhớ thương. Đó là tài năng của ông. Giọng ông vừa cất lên, người ta đã nhận ngay ra hình bóng quê hương làng mạc” và “Đọc Nguyễn Bính, vì vậy, chúng ta được nhập vào hồn quê hơn là cảnh quê. Nói về cảnh thì Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ có nhiều chi tiết sắc và thực hơn, nhưng dựng được cái hồn quê thì chưa ai bằng Nguyễn Bính. Ngày nay, nông thôn ta đã đổi thay nhiều, cả phong cảnh lẫn hồn người, nhưng những câu thơ của Nguyễn Bính như một dấu tích tâm hồn dân tộc sẽ nuôi dưỡng lòng nhiều thế hệ bạn đọc” (Vũ Quân Phương). Và “Mưa xuân” của Nguyễn Bính lấp lánh vẻ đẹp “hồn xưa của đất nước” (Hoài Thanh).

9. Phân tích bài thơ 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 4
Mùa xuân là một chủ đề vô tận trong thơ ca. Họa sĩ thể hiện cảm xúc qua nét vẽ và màu sắc, nhạc sĩ qua giai điệu và âm thanh, còn thi sĩ dùng từ ngữ và hình ảnh để diễn tả tình yêu thiên nhiên và sự tươi mới của mùa xuân. Bài thơ “Mưa xuân II” của Nguyễn Bính đã để lại ấn tượng sâu sắc với bức tranh thôn quê đặc sắc.
“Chiều ấm, mùi hương thoảng theo gió
Mưa bụi nhẹ rơi, lất phất như rắc
Cây cam, cây quýt cành giao nhau
Lá mở lòng tay đón mưa xuân nhẹ nhàng.
Mưa xuân khó lòng nhìn rõ ràng
Tơ nhện giăng trắng như sương mờ
Bươm bướm bay, cánh không ướt
Người đi lễ hội tóc rối tung.
Đường mát làn da, lúa mát thân người
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh
Gò cao đứng vững, trâu đứng nhai
Nghe tiếng trống vọng từ đình làng.
Núi đá tươi màu rõ nét
Xe lửa chạy nhanh về phương Nam
Đàn cò bay trên cánh đồng
Như hàng chữ trắng phau trên mặt ruộng.
Bãi lạch, bờ dâu phủ lá tơ
Làng bên, âm thanh chuông mờ ảo
Chiều xuân lưu luyến, không nỡ rời
Mù sương lơ lửng, mưa rơi phảng phất.”
“Mùa xuân II” được viết năm 1958 và in trong tuyển tập của Nguyễn Bính. Ông là nhà thơ nhạy cảm với thời đại, đặc biệt trong bối cảnh văn học biến động. Ông thể hiện nỗi trăn trở về sự mai một của những giá trị cổ truyền. Nguyễn Bính đã kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa dân gian trong thơ mới, thể hiện rõ chất quê, hồn quê trong cả nội dung lẫn hình thức. Vì vậy, bức tranh thôn quê trong “Mưa xuân II” để lại ấn tượng sâu sắc với độc giả.
Bức tranh thôn quê hiện lên qua hình ảnh sinh động như mưa, gió, hoa lá, cây cối và đồng ruộng, tạo nên không gian thanh bình và tràn đầy sức sống. Những hình ảnh như cây cối, hoa lá, cỏ dại, và đồng ruộng được miêu tả tỉ mỉ, sống động, tạo nên một bức tranh đa sắc màu. Cùng với đó là hoạt động của con người trong thôn quê, từ việc đi lễ hội đến làm việc đồng áng, và những đứa trẻ vui chơi, tạo nên một cảnh vật êm đềm và quen thuộc. Độc giả như được trở về với quá khứ, hòa mình vào thiên nhiên và cuộc sống bình dị của nơi đây. Tâm hồn trở nên bình yên hơn, tạm gác lo toan cuộc sống để cùng Nguyễn Bính trở về vùng quê dân dã.
Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên và con người, Nguyễn Bính cũng miêu tả âm thanh của chuông đình, trống hội, tiếng cười đùa của trẻ em, và tiếng trâu trên đồng. Những âm thanh này làm cho bài thơ trở nên nhạc tính hơn. Các từ ngữ với gam màu tươi sáng như “lúa mát mình”, “hoa xanh”, “mặt ruộng trắng phau phau” phối hợp hài hòa, tạo nên bức tranh thôn quê mùa xuân tràn đầy sức sống và sắc thái tươi mới.
Để có được bức tranh đẹp như vậy, chắc chắn Nguyễn Bính đã ở trong trạng thái yên bình và say đắm. Tình yêu thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây đã thấm vào từng câu chữ của ông. Ông từng chia sẻ rằng “Tôi yêu và trân quý những gì thiên nhiên mang lại, nó len lỏi trong cuộc sống của tôi”.
(Trần Bình Bình)

10. Cảm nhận về bài thơ 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 1
Bức tranh thôn quê trong bài thơ 'Mưa Xuân II' của Nguyễn Bính được vẽ bằng những chi tiết sống động và tinh tế. Tác giả đã khéo léo sử dụng các hình ảnh mùa xuân như mưa, gió, hoa lá, cây cối và đồng ruộng để dựng nên một không gian yên bình, tươi tắn và đầy sức sống. Tôi cảm nhận được vẻ đẹp hài hòa và tự nhiên của thiên nhiên qua bức tranh này. Những cây cối, hoa lá, cỏ dại, và đồng ruộng được miêu tả rất sắc nét, tạo nên một bức tranh thôn quê đa màu sắc và sinh động. Bên cạnh đó, bức tranh cũng ghi lại cuộc sống của người dân thôn quê với những cảnh như lễ hội, trẻ em vui đùa và công việc đồng áng, làm nổi bật sự đoàn kết và tình cảm trong cộng đồng. Bức tranh này không chỉ đẹp và tinh tế mà còn mang đến cảm giác yên bình và thanh tịnh, giúp người đọc tạm quên đi những lo âu thường nhật và tìm về sự bình yên trong tâm hồn. Cùng với hình ảnh thiên nhiên và con người, tác giả còn khéo léo mô tả các âm thanh đặc trưng của thôn quê như tiếng chuông, tiếng trống hội, tiếng cười đùa của trẻ em và tiếng trâu trên đồng. Những âm thanh này làm tăng thêm tính nhạc cho bài thơ, mang đến cảm nhận sống động về cuộc sống thôn quê. Sử dụng từ ngữ tươi sáng và sắc màu như 'lúa mát mình', 'hoa xanh', 'mặt ruộng trắng phau phau', tác giả tạo nên một bức tranh mùa xuân rực rỡ và tươi mới. Bức tranh thôn quê trong 'Mưa Xuân II' của Nguyễn Bính là một tác phẩm đẹp và sống động, đem lại cảm giác yên bình và sức sống, giúp người đọc tìm lại sự bình yên trong tâm hồn và cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống thôn quê.

11. Cảm nhận về bài thơ 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 2
Thơ của Nguyễn Bính mang đậm hương vị dân gian, và một trong những tác phẩm tiêu biểu là “Mưa xuân II”. Khi đọc bài thơ này, tôi cảm nhận rõ vẻ đẹp của thiên nhiên tràn đầy sức sống cùng cảm xúc tác giả gửi gắm. Cảnh vật trong thơ được vẽ lên bằng những hình ảnh quen thuộc của làng quê. Cây cam và cây quýt cành giao nhau, những chiếc lá rộng mở đón nhận cơn mưa nhẹ nhàng. Đám cỏ dại nở ra những chùm hoa xanh mướt, bươm bướm bay lượn mà không bị ướt cánh, còn tơ nhện thì giăng trắng như sương. Xa xa, dãy núi hiện lên hùng vĩ, trong khi đàn cò trắng bay trên mặt ruộng xanh. Mọi thứ đều tươi mới, tràn đầy sức sống dưới cơn mưa xuân. Trong bối cảnh thiên nhiên ấy, con người cũng hòa quyện vào không khí vui tươi của mùa xuân, với những người chuẩn bị đi lễ hội, tạo nên một không khí nhộn nhịp. Bài thơ cho thấy mối liên kết chặt chẽ và sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.

12. Cảm nhận về bài thơ 'Mưa xuân II' (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 3
Đông tàn, mùa xuân lại đến với sắc đào rực rỡ và những cành mai chớm nở. Đọc “Mưa xuân II” của Nguyễn Bính, ta như được hòa mình vào không khí mùa xuân nhẹ nhàng với những hạt mưa xuân lấm tấm. Mưa xuân không ồ ạt như mùa hè, mà chỉ phảng phất nhẹ nhàng trên bầu trời, mang đến cảm giác mát dịu. Cảnh sắc trong bài thơ như những cây cam trổ mầm, đàn bươm bướm bay lượn và người dân hòa mình vào mùa xuân với những lễ hội rộn ràng. Bờ cỏ dại nở hoa xanh, bụi sương mù bay lất phất trong gió sớm tạo nên một không gian mùa xuân tràn đầy sức sống và nhiệt huyết. Cụm từ nhân hóa “ngửa lòng bàn tay” gợi hình ảnh cảnh vật cũng đang tận hưởng sự dịu dàng của mùa xuân. Những âm thanh như tiếng trống hội, tiếng xe lửa và tiếng cò bay tạo nên bản giao hưởng mùa xuân sống động. Nguyễn Bính đã khắc họa mùa xuân qua mưa xuân, âm thanh và hình ảnh sinh động, tạo nên một khung cảnh mùa xuân mê đắm lòng người. Qua bài thơ “Mưa xuân II”, ta như được đắm chìm trong thế giới mùa xuân rực rỡ, với âm thanh và hình ảnh tràn đầy sức sống, mang lại một cảm giác tươi mới và bừng sáng.
