Svetlana Alexievich, Người Đoạt Giải Nobel Văn Chương Năm Nay, Đang Ngồi Ở Một Bàn Với Mười Người, Trước Một Nhà Hàng Ồn Ào Ở Berlin Khi Bà Tổ Chức Họp Báo Giải Nobel Hai Tuần Trước. Alexievich Có Vóc Người Chắc Nịch, Cao Hơn 1m80 Một Chút, Với Mái Tóc Ngang Vai Được Nhuộm Màu Nâu Đỏ Đậm Hơn Ngày Xưa. Cô Phục Vụ Gật Đầu Một Cách Kính Cẩn, Chỉ Vào Một Chồng Sách Trên Bàn Chứng Tỏ Cô Đã Biết. Người Đức Đang Phản Đối Một Hiệp Định Giao Thương Giữa Mỹ Và Liên Minh Châu Âu, Và Trung Tâm Thành Phố Này Đã Ngừng Mọi Giao Thông. Sau Khi Trả Lời Câu Hỏi Suốt Một Tiếng – Đa Số Câu Hỏi Là Về Chính Trị Nga Và Belarus – Alexievich Đã Đi Bộ Hàng Dãy Nhà Trong Gió Lạnh, Trước Khi Ẩn Náu Tại Nhà Hàng Này Cùng Với Một Nhóm Bạn Và Nhà Sản Xuất.
Ảnh: @The New Yorker
Giải Nobel Văn Chương Của Năm Nay Lần Đầu Tiên Được Trao Cho Một Tác Giả Chỉ Làm Việc Với Những Người Thực. Sách Của Bà Nói Về Khủng Hoảng Lịch Sử - Thế Chiến II, Chiến Tranh Xô Viết Ở Afghanistan, Thảm Họa Hạt Nhân Tại Chernoby, Và Sự Sụp Đổ Của Nước Nga Xô Viết – Qua Lời Kể Của Những Cá Nhân Bình Thường. Đây Là Lịch Sử Bằng Lời Được Bóc Tách Đến Từng Lớp, Thật Đến Mức Có Thể Làm Người Đọc Thêm Tin Tưởng Và Cảm Thông Với Nỗi Đau. Ở Đoạn Mở Đầu “Tiếng Vọng Từ Chernobyl”, Xuất Bản Năm 1997 Tại Nga, Một Người Phụ Nữ Trẻ Tả Cảnh Cô Ấy Nhìn Thấy Chồng Mình, Một Người Lính Cứu Hỏa, Qua Đời Vì Nhiễm Độc Bức Xạ: Tại Nhà Xác, Họ Hỏi Tôi “Cô Có Muốn Nhìn Xem Chúng Tôi Mặc Gì Cho Anh Ấy Không?” Có! Họ Khâm Liệm Anh Ấy Trong Quần Áo Lao Động Với Chiếc Mũ Của Lính Cứu Hỏa. Họ Không Thể Đi Giày Cho Anh Ấy Vì Chân Anh Đã Sưng Phồng. Quần Áo Cũng Phải Được Cắt Bớt Vì Họ Không Thể Mặc Được Cho Anh Ấy – Cơ Thể Đã Không Còn Nguyên Vẹn Nữa. Tất Cả Đều Là – Vết Thương. Hai Ngày Cuối Cùng Ở Bệnh Viện – Tôi Nhấc Tay Anh Ấy Và Thấy Xương Đang Lung Lay, Gần Như Chao Liệng, Cơ Thể Đã Rời Khỏi Nó. Từng Mảnh Phổi, Mảnh Gan Trào Ra Từ Miệng Anh Ấy. Anh Ấy Đã Ho Ra Chính Lục Phủ Ngũ Tạng Của Mình. Tôi Quấn Băng Trên Tay Đưa Vào Miệng Anh Ấy Và Lấy Hết Chúng Ra. Nói Về Điều Đó Hay Viết Về Điều Đó Là Không Thể, Và Không Thể Sống Tiếp Với Chúng Nữa. Tất Cả Đều Là Của Tôi. Tình Yêu Của Tôi. Họ Không Thể Tìm Nổi Một Đôi Giày Vừa Chân Anh Ấy. Anh Ấy Đã Được Chôn Với Chân Trần.
Alexievich nói với tôi, “Chúng ta đang sống trong một thế giới tầm thường. Với hầu hết mọi người, điều đó là đủ - nhưng bạn đã vượt qua điều đó như thế nào? Bạn đã loại bỏ điều tầm thường như thế nào? Bạn phải khiến mọi người khám phá sâu hơn vào bên trong chính họ.” Bà Sara Danius, thư ký thường trực của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, khen ngợi Alexievich đã tạo ra một thể loại văn học mới: “lịch sử của cảm xúc – hoặc bạn cũng có thể gọi là lịch sử của tâm hồn.”
Sách của Alexievich đã được xuất bản trên toàn thế giới nhưng chủ yếu là bởi các nhà xuất bản nhỏ. “Tiếng vọng từ Chernobyl” ra mắt cách đây mười năm tại Mỹ nhờ vào Nhà sách Dalkey Archive, một nhà xuất bản nhỏ phi lợi nhuận (Dịch giả là anh trai tôi, Keith Gessen). Bà đã đoạt nhiều giải thưởng, trong đó có Giải thưởng Hội Phê Bình Sách Toàn Quốc năm 2005, Giải Thưởng Hòa Bình của Hội Xuất Bản Đức. Tuy nhiên, giải thưởng gần đây nhất của bà trước khi đoạt giải Nobel là Giải Prix Médicis Essai của Pháp, dành riêng cho các tác giả tài năng nhưng chưa có nhiều danh tiếng.
Alexievich viết bằng tiếng Nga và sinh ra ở Belarus, một quốc gia có dân số ít hơn mười triệu người, được lãnh đạo bởi Alexander Lukashenko - một cựu sĩ quan Xô Viết – từ năm 1994. Belarus vẫn luôn gắn bó mật thiết với Nga, và bằng cách nào đó là nước Xô Viết nhất trong mười lăm nước kế thừa của Liên Xô – nền kinh tế phần lớn quản lý bởi chính phủ và tự do ngôn luận và hội họp bị hạn chế nghiêm ngặt. Trong một thời gian dài, sách của Alexievich đã được đưa vào Belarus từ Nga và được bán trên thị trường đen. Trong những năm gần đây, khi Lukashenko bắt đầu cố gắng mở rộng quan hệ với phương Tây, sách của bà đã được phép bán ở cửa hàng sách.
Alexievich đã sống gần hết thời thơ ấu trong một căn hộ nhỏ - có hai phòng và một bếp - tại một tòa nhà mười tầng sau thời kỳ Xô Viết ở trung tâm thủ đô Minsk. Cha mẹ bà đã qua đời, và con gái bà – thực ra là con gái của người chị quá cố của bà, được bà nhận nuôi khi cô bé lên bốn – đang dạy ở một trường dạy nghề trao đổi tự do (trade school) ở Minsk, cũng đang nuôi con gái của chính cô. Một người bạn lâu năm sống ở căn hộ kế bên.
Trong những năm gần đây, Alexievich đã cố gắng tìm một căn hộ lớn hơn, nhưng bà không thể từ bỏ ánh sáng rực rỡ và cảnh đẹp của sông Svisloch, nên bà đã mong muốn tìm một chỗ mới trong cùng tòa nhà với cửa sổ hướng ra phía đó. Ý định sắp chuyển nhà khiến bà lo lắng. Một giải thưởng tiền mặt – ít hơn một triệu đô một chút – sẽ không có ích gì đâu, bà nói với tôi, vì không có ai để ủy thác những thay đổi của bà: không có ai ở Minsk có mắt nghệ thuật như bà. Bà thích những hình khối cứng rắn, đường kẻ đơn giản và không hỗn loạn ồn ào.
Alexievich là người đầu tiên giành giải Nobel nhờ tác phẩm hoàn toàn dựa trên phỏng vấn. Điều này khiến một số tác giả khen ngợi Hội đồng vì vinh danh một nhà văn. Tiêu đề của tờ Los Angeles Times về giải thưởng đã gọi Alexievich là một phóng viên, danh hiệu này khiến bà cảm thấy bị xúc phạm. “Tôi luôn biết từ lúc năm tuổi rằng tôi muốn trở thành một nhà văn”, bà nói. Trong ngành xuất bản ở Nga, ranh giới giữa văn học hư cấu và phi hư cấu thường mờ nhạt – sách của bà thường được xếp vào hàng proza, cùng với các tiểu thuyết khác – nhưng ranh giới giữa báo chí và văn học là không thể vượt qua.
Cha mẹ bà đều là giáo viên ở quê, bà là con cả trong ba anh chị em của một gia đình bắt đầu từ cảnh nghèo khốn khổ rồi sau đó mới đạt mức sống khiêm tốn, thậm chí theo tiêu chuẩn xã hội Xô viết. Bà đăng ký học ngành báo chí tại Đại học Belarus, vì đó là trường có khả năng nhất khi bà nghĩ đến việc học viết. Một thế hệ trước đó, trong thời Stalin, cha bà bỏ học để gia nhập hồng quân, và sau khi một người thân bị bắt, ông đã từ bỏ sự nghiệp báo chí.
Bà đã từng làm việc tại một tờ báo, viết thơ, kịch và kịch bản, nhưng luôn tìm kiếm cơ hội để – như bà nói – “tạo nên một văn bản mới.” Bà được truyền cảm hứng từ thầy của mình, tác giả Belarus Ales Adamovic, người chọn thể loại lịch sử qua lời kể. Điểm khác biệt duy nhất là bà không đủ kiên nhẫn để tác giả tham gia quá nhiều vào lời kể như Adamovic. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là “The Book of the Siege” kể về thời Leningrad bị vây hãm từ 1941 đến 1944, viết cùng Daniil Granin, một người tự do khác của thời Xô viết. “Có một câu chuyện về cậu bé và mẹ của cậu, sống cùng một người phụ nữ hay ăn cắp”, Alexievich kể. “Cậu bé và mẹ đang chết đói.” Như Alexievich nhớ lại, cậu bé biết trong chỗ giấu giếm của người phụ nữ kia có một nửa miếng thịt viên và cậu đấu tranh mãi có nên lấy nó hay không. “Và đột nhiên là ba trang toàn suy ngẫm về bản chất của giới trí thức Nga. Có điều này tôi luôn tự nhủ là ‘Đừng lại gần miếng thịt viên. Bạn sẽ thua.’”
Alexievich muốn bỏ qua giọng văn của tác giả, bỏ qua bối cảnh và thứ tự thời gian thường thấy. Bà muốn truyền tải chính xác nhất những tiếng nói từ thời thơ ấu, khi phụ nữ trong làng quây quần kể chuyện Thế chiến II vào những buổi chiều. Người kể chuyện luôn là phụ nữ, vì phần lớn đàn ông đã chết trong chiến tranh, và những người còn lại thường không đủ tỉnh táo vì say rượu. Alexievich sinh ra ba năm sau khi chiến tranh kết thúc ở Xô Viết-Ukraina, lớn lên ở Xô Viết-Belarus, nơi Đức Quốc xã đã tiêu diệt người Do Thái, Di-gan, người Slav bằng cách thiêu rụi các làng mạc.
Khi bắt đầu thu thập tư liệu cho cuốn sách đầu tiên, bà kể rằng bà đã tìm những người phụ nữ có câu chuyện giống những gì bà nghe hồi nhỏ và hỏi họ “về những thứ tôi muốn biết”. Bà trò chuyện với những phụ nữ từng ở trong quân đội. “Tôi không quan tâm đến số người chết hay tại sao họ chết; tôi chỉ muốn biết cảm xúc của một người phụ nữ”. Bà còn nói, “Tôi còn trẻ, nên họ kể tôi những chuyện người lớn hơn kể cho người trẻ hơn.” Tập trung vào phụ nữ là lựa chọn khôn ngoan, theo Alexievich: “Phụ nữ kể chuyện hấp dẫn hơn nhiều. Họ sống với nhiều cung bậc cảm xúc, họ quan sát chính bản thân và cuộc đời mình. Đàn ông thì ấn tượng với hành động – với họ, chuỗi sự kiện mới quan trọng.” Tiếng nói của phụ nữ cũng là chủ đạo trong các tác phẩm sau này của bà.
Cuốn sách “Chiến tranh không có gương mặt phụ nữ” (War Has Not a Woman’s Face) ra mắt lần đầu năm 1984 dưới dạng rút ngắn trên tạp chí chuyên đề Moscow Oktyabr
Ảnh: @The New Yorker
Theo Alexievich, Mikhail Gorbachev đã đọc cuốn sách này và dùng tựa đề trong một bài diễn văn, biến nó thành một chính sách đảng thực sự. Đó là khoảnh khắc bắt đầu của thời kỳ minh bạch ở Nga, một khởi đầu mới cho đời sống văn chương và trí thức, khi người dân Xô Viết bắt đầu đối mặt với lịch sử của họ một cách chân thật và đau đớn. “Chiến tranh không có gương mặt phụ nữ” được xuất bản hoàn chỉnh vào năm 1985 và bán được hơn hai triệu bản tiếng Nga, mang về cho Alexievich giải thưởng Lenin Komsomol danh giá. Phiên bản không kiểm duyệt chỉ ra đời khi Liên Xô sụp đổ sáu năm sau đó.
Trong cuốn “Những nhân chứng cuối cùng” (The Last Witnesses), viết sau “Chiến tranh không có gương mặt phụ nữ” nhưng xuất bản cùng năm, Alexievich đã trò chuyện với những người từng trải qua Thế chiến II khi còn là trẻ em. Khác với những phụ nữ trong cuốn sách đầu tiên, hầu hết những người kể chuyện này không phải là lính. Perestroika bắt đầu năm 1985, cùng năm đó Alexievich trở thành tác giả nổi tiếng khắp nước. Lúc này, mọi người có thể tự do nghi ngờ các chính sách của Liên bang Xô Viết, và Alexievich dùng danh tiếng của mình để tìm đến Afghanistan, nơi Liên Xô đang giằng co với phe nổi dậy và các chiến binh Mujahideen từ năm 1979.
Cuốn “Quan tài kẽm” (Boys of Zinc) kể về những người lính Xô Viết, mẹ và vợ góa của họ, xuất bản năm 1989, năm mà Liên Xô rút khỏi Afghanistan. (Tựa đề bản dịch tiếng Anh “Zinky Boys” không hoàn toàn chính xác: nó ám chỉ những quan tài kẽm đóng kín chứa thi thể người được chuyển về Liên Xô). Alexievich đã vạch trần thêm một ảo tưởng khác của ý chí quân sự Xô Viết: bà cho thấy những người lính sợ hãi, hoang mang, bị đẩy đến mức tột cùng của nghèo khó và nhục nhã. “Đó là lần đầu tiên tôi chứng kiến chiến tranh,” bà kể. “Tôi rất hoảng sợ bởi những gì mình thấy – cái chết, người ta giết chóc một cách đơn giản, rồi ngay sau đó họ uống vodka, bán vodka, cười đùa và mặc cả. Đó là thời Xô Viết và họ muốn mua quà lưu niệm cho mẹ nhưng tiền đâu ra? Họ bán đạn, những viên đạn mà ngày mai sẽ được dùng để giết chính họ.”
Năm 1992, một số chủ đề trong “Quan tài kẽm” cùng với một tổ chức đại diện cho các bà mẹ có con tử trận đã kiện Alexievich vì tội phỉ báng quân đội Xô Viết. Một bà mẹ chứng kiến nói, “Bà bảo tôi nên ghét đất nước và Đảng. Nhưng tôi tự hào về con trai tôi! Nó đã hy sinh như một sĩ quan trong trận chiến. Đồng đội yêu quý nó. Tôi yêu đất nước Xô Viết, vì con trai tôi đã chết vì điều đó. Và tôi căm thù bà! Tôi không cần sự thật đáng sợ của bà.”
Alexievich thắng kiện, nhưng phiên tòa đánh dấu một bước ngoặt lớn. Liên Xô sụp đổ năm 1991, mang theo khái niệm “cải tổ” (perestroika). Ở nhiều nơi từng là Liên Xô, quá trình lật lại lịch sử Xô Viết bắt đầu trở nên xa vời và xúc phạm đối với những người cảm thấy mất mát. Dưới thời Vladimir Putin, hệ tư tưởng chính thống quay lưng với dân chủ, đề cao chủ nghĩa dân tộc và coi những người như Alexievich là đáng ngờ. Trong khi danh tiếng của bà tăng cao ở nước ngoài, thì tại Nga lại suy giảm.
Trước khi nhận giải Nobel, Colta, một học giả tự phong người Nga chuyên về ấn phẩm mạng, đăng bài viết với tựa đề “Tại sao bạn cần biết Svetlana Alexievich là ai.” Bài viết nhấn mạnh rằng người Nga nên quan tâm đến bà vì thế giới cũng đang quan tâm.
Truyền thông chính phủ Nga phản ứng với giải Nobel của Alexievich bằng những lời lẽ cay nghiệt, gợi nhớ cách báo chí Xô Viết từng phản ứng với các giải Nobel trước đây. Viện Hàn lâm Thụy Điển thường tôn vinh các tác giả chống đối chế độ Xô Viết. Năm 1933, Ivan Bunin, nhà văn lưu vong, được gọi là “con sói của phản cách mạng”. Năm 1958, Boris Pasternak nhận giải cho “Bác sĩ Zhivago” nhờ sự giúp đỡ của CIA. Pasternak bị ép từ chối giải. Năm 1970, Aleksandr Solzhenitsyn chiến thắng nhưng sách của ông bị cấm, và sau khi xuất bản “Quần đảo ngục tù” năm 1973, ông bị lưu đày. Joseph Brodsky, bị trục xuất vì làm thơ thay vì công việc bình thường, nhận giải Nobel năm 1987.
Năm nay, trong tờ Izvestia, Zakhar Prilepin, một tác giả nổi tiếng của Nga, tuyên bố Alexievich “không phải là nhà văn”, và bà được chọn chỉ vì chống đối điện Kremlin và không phải là người Nga thực sự. “Chúng ta thấy bức tranh lớn: Bunin, Solzhenitsyn, Pasternak, Brodsky,” ông viết. Đại diện của Alexievich, Galina Dursthoff, ở Cologne, cho biết nhận được nhiều thư đe dọa từ Nga hơn là thư chúc mừng từ các nơi khác. Nhiều người lên án Ủy ban Nobel vì trao giải cho “một kẻ kì thị Nga”, “một người đồng tính nữ Do Thái” (Alexievich không phải người Do Thái và chưa từng công khai đời sống cá nhân).
Alexievich nhắc đến từ 'thông tin' với một sự chán ghét giống như người Belarus chán ghét từ 'tư bản'. Theo bà, thông tin chi phối thế giới nhưng lại vô giá trị. 'Tôi không nghĩ rằng 'những sự thật mới' có thể giúp ta hiểu thêm điều gì', bà nói, ám chỉ lượng sách về Nga và Liên Xô gần đây. Trong sách của mình, bà chỉ ghi tên, tuổi và nghề nghiệp của đối tượng, vì chúng phản ánh 'thời gian trên Trái Đất của chúng ta' và 'cách ta nhìn nhận cuộc sống'. Đôi khi bà tóm tắt ngắn gọn để xác nhận lời của đối tượng, như cuộc hội thoại với một nhà văn 57 tuổi, người sống sót sau khi cha mẹ qua đời vì bị lưu đày, trong cuốn 'Thời gian dùng lại' (2013):
Tôi đang đi bộ với Vladya... Chúng tôi mang một chiếc khăn choàng lông... một thứ đẹp đẽ từ thế giới khác, được làm để ra lệnh. Vladya biết đan và chúng tôi sống nhờ vào đó. Người phụ nữ đó trả tiền và nói, 'Tôi cắt vài bông hoa cho các bạn thì sao?' Một bó hoa cho chúng tôi ư?... Chúng tôi chỉ nghĩ đến bánh mì, nhưng người này thấy chúng tôi có thể nghĩ đến thứ khác. Điều đó nghĩa là chúng tôi không khác biệt. Bạn bị cách ly, và một cánh cửa mở ra... Cô ấy không nhặt hoa mà cắt chúng cho chúng tôi từ vườn của cô ấy. Khoảnh khắc đó... là chìa khóa...tôi đã được trao chìa khóa... Nó khiến tôi thay đổi... Tôi nhớ những bông hoa đó... Một bó lớn cúc tây... Tôi luôn trồng chúng tại nhà tôi bây giờ. (Chúng tôi nói chuyện tại nhà cô ấy, nơi chỉ có hoa và cây cỏ.)
Người phụ nữ này sống sót qua những bi kịch mà nhiều người không thể tưởng tượng: bị lưu đày, sống trong túp lều bùn, mất cha mẹ và chị gái. Nhưng Alexievich không đặt câu hỏi như một nhà báo - người phụ nữ này có sống sót không? Cô ấy có gặp lại gia đình không? Sự thật có được khám phá không? Thay vào đó, bà tiếp cận như một tiểu thuyết gia: nếu nhân vật của bà nhắc đến chúng, có thể chúng không bao giờ được nhắc đến. 'Tôi là một nhà văn dùng công cụ báo chí.'
Khi bắt đầu phỏng vấn khoảng năm 1980, Alexievich nhận ra không thể ghi chép bằng tay. Bà cần giữ lại từng từ của người phỏng vấn, kể cả sự im lặng. 'Cách người ta sắp xếp từ ngữ rất đáng chú ý,' bà nói. Một máy ghi âm băng từ ở Belarus giá khoảng năm trăm rúp, tương đương ba tháng lương - bà vay tiền từ Adamovich và các nhà văn khác. Bà dùng quy trình: ghi âm cuộc trò chuyện, sau đó ghi lại bằng văn bản, rồi viết từ văn bản đó mà không tốc ký, thường đọc to các đoạn độc thoại. Viết một cuốn sách mất từ năm đến mười năm và chứa tiếng nói của ba trăm đến năm trăm người. Khoảng một trăm người trong đó, mười đến hai mươi người, bà gọi là 'trụ cột', phỏng vấn tối đa hai mươi lần một người. 'Giống như vẽ chân dung', bà nói. 'Bạn cần quay lại, tiếp tục và thêm từng nét vẽ.'
Alexievich cho biết 'Tiếng vọng từ Chernobyl' là cuốn sách dễ viết nhất của bà: chưa có sự kiện nào tương tự xảy ra trước đây, 'nên chẳng ai có thói quen bảo vệ nó.' Bà bắt đầu viết sách ngay sau thảm họa hạt nhân năm 1986, để nắm bắt cảm xúc chân thật nhất. 'Tôi nhận ra bạn cần phải theo dòng lịch sử.' 'Loại hình này chỉ phục vụ những chuyện kinh khủng nhất thôi.' Dù vậy, những sự kiện này thẳng đến trái tim. 'Tôi làm việc để tái hiện một thời gian, một con người sống trong thời gian đó.'
Khi Alexievich viết sách, bà nhận ra rằng mình đang vẽ nên một bức tranh toàn diện về con người Xô viết - người Đỏ. Mọi thứ bắt đầu từ sự kiện mị dân nhất trong quá trình hình thành con người Đỏ - cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại - và kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô. “Tiếng vọng từ Chernobyl” là cuốn thứ tư trong chuỗi sách của bà. Cuốn thứ năm và cũng là cuối cùng, “Thời gian dùng lại”, là tác phẩm tham vọng nhất: nhiều phụ nữ và một số ít đàn ông nói về sự biến mất của tư tưởng Xô viết, các cuộc chiến tinh thần hậu Xô viết, di sản của Gulag, và nhiều khía cạnh khác của trải nghiệm Xô viết. Alexievich chia sẻ, 'Chúng ta bị bao vây bởi những nạn nhân. Ai đã gây ra những điều này cho họ? Người ngoài hành tinh ư? Những câu hỏi như vậy tiếp tục hiện ra, nhưng chúng tự nhiên diễn ra – tôi chỉ cần đặt chúng vào quá trình.'
Ảnh: @The New Yorker
Hiện tại, Alexievich đang viết hai cuốn sách - một về tuổi già và cái chết, một về tình yêu. Cả hai đều không tập trung vào một sự kiện lịch sử cụ thể và đều đang tiến triển chậm: 'Khi tôi bắt đầu ghi âm, tôi nhận ra một vấn đề. Thế hệ bao trùm tất thảy là thế hệ Xô Viết. Họ phải nói về bản thân họ với kinh nghiệm bằng không. Bạn hỏi họ về tình yêu, họ kể bạn nghe về việc xây dựng Minsk. Bạn hỏi về tuổi già, họ kể về cuộc sống khó khăn sau chiến tranh. Như thể họ chưa bao giờ sống cuộc đời của chính mình vậy.'
Alexievich cho rằng thời kỳ Perestroika (Cải tổ) là một thời gian hạnh phúc: 'Người ta trở nên thú vị hơn. Họ bắt đầu chú ý đến những chi tiết nhỏ trong quá khứ - họ thuộc một loại người khác.' Khi bà viết “Thời gian dùng lại”, bà cảm thấy những đối tượng phỏng vấn của bà không thấy gì mới mẻ từ quá khứ hay hiện tại. Hy vọng mà Perestroika mang lại đã tan biến, và người ta bắt đầu tái sử dụng những ý tưởng và cảm xúc cũ. Nỗ lực này tuyệt vọng đến mức có lúc Alexievich nghĩ rằng bà đang viết sách về tự tử. Năm 1993, bà xuất bản một cuốn sách nhỏ về chủ đề này, tên là “Cái chết quyến rũ” (Enchanted by Death), và những câu chuyện này sau đó xuất hiện trong “Thời gian dùng lại”.
Alexievich duy trì liên lạc với nhiều người mà bà đã phỏng vấn, họ thường chia sẻ với bà những câu chuyện mới. Một cuộc gọi điện thoại, bà nói, có thể 'làm nổ tung những gì bạn đã biết'. Bà thường mở rộng các cuốn sách của mình mỗi lần tái bản. 'Chẳng hạn, một con người là người thế nào?' bà hỏi. 'Dựa vào tâm trạng anh ta, bạn bè anh ta, những cuốn sách anh ta đọc, và cả vào bạn gặp anh ta lúc sáng hay tối. Mọi thứ đều có ý nghĩa.' Vậy một con người là như thế nào? 'Tất nhiên bạn không bao giờ đối mặt với sự thật – chúng ta không thể biết – nhưng bạn có thể nắm bắt được một thứ gì đó chắc chắn.' Bà thường đối mặt với nỗi đau. Rất nhiều người bà phỏng vấn nói về việc 'chịu đựng' hoặc 'chuyển giao' nỗi đau, như thể họ nghĩ đó là mối quan hệ của họ với người phỏng vấn – là quá trình chuyển giao nỗi đau.
Alexievich quyết định rời Belarus, một phần để phản đối chính trị của Lukashenko, một phần để giữ sức viết. 'Không còn ai đuổi theo tôi với khẩu Kalashnikov nữa.' Khác với nhiều trí thức Belarus bị bắt hoặc 'biến mất', bà được bảo vệ bởi danh tiếng quốc tế. Là người nổi tiếng, bà thấy mình cần góp giọng vào phe đối lập yếu ớt. Năm 2000, bà đồng sáng lập nhóm nhân quyền Helsinki XXI. 'Nhưng tôi mệt mỏi vì đứng sau rào chắn,' bà nói. 'Tôi nhận ra mình đã nhượng bộ cho nhiệt huyết của trận chiến. Điều này nguy hiểm nhất với một nghệ sĩ.' Văn hóa Nga là một văn hóa rào chắn. Bà cần giải thoát bản thân và thấy không có gương mẫu nào để noi theo. Một lối thoát trí thức từ những năm 1970 là tôn giáo, nhưng Alexievich không hứng thú. 'Khi nhìn thấy vườn hoa, tôi tin vào Chúa trong một giây,' bà nói. 'Nhưng những lúc khác thì không.'
Bà chuyển đến Tây Âu, nơi bà có thể tiếp tục yên ổn với học bổng nghiên cứu sinh. Bà đã sống ở Ý, Đức, Pháp và Thụy Điển, chưa bao giờ học ngôn ngữ nào. Bà kết bạn với những người phiên dịch, xem những vở kịch dựa trên sách của mình. 'Thế giới trở nên đa tầng lớp, đa màu sắc.' Bà hy vọng thời kỳ Lukashenko sẽ chấm dứt khi bà ra nước ngoài. Nhưng bà nhận ra mình đã sai. Bà thấy mình vướng vào một bẫy trí thức khác: sống ở nơi tự do viết lách nhưng không thể thâm nhập như trước. Bà đi lại nhiều giữa các chuyến trở về Liên Xô cũ và thấy ngôn ngữ của đối tượng thay đổi. Vài năm trước, bà trở lại Minsk.
Quyết định này mang lại sự cô đơn nhiều hơn bà tưởng. Những người thầy đã qua đời, những cộng sự lưu vong hoặc biến mất. Ở Tây Âu, bà có bạn thú vị tuổi bảy mươi, nhưng ở Belarus những người trên năm mươi đã nghĩ rằng cuộc đời họ đã hết. Kể cả những mối quan hệ thông thường cũng biến mất. 'Khi tôi bay đi đâu đó, tôi không còn gặp người thế hệ mình tại sân bay,' bà nói. 'Không ai còn đi đâu nữa.'
Những cách thông thường để mở rộng vòng quan hệ xã hội không hấp dẫn bà. 'Tôi không thể dạy vì không muốn lặp lại chính mình,' bà nói. 'Hơn nữa, có rất ít người trẻ tài năng.' Giờ đây sách của bà được bán công khai tại Belarus, bà có độc giả, nhưng 'độc giả không thể cho bạn gì hơn ngoài sự tầm thường.' Bà không ghét độc giả mình, chỉ không muốn nói chuyện với họ. 'Tôi không hứng thú với con người đến mức đó.' 'Một cuộc đối thoại thực sự nào đó – nhưng điều đó quá hiếm.' Bà đến Moscow xem triển lãm nhiếp ảnh. Những hình ảnh này ở lại với bà lâu và trợ giúp công việc rất nhiều. Âm nhạc cũng vậy: Alexievich lắng nghe các nhạc sĩ đương đại hậu Xô viết như Valentin Silvestrov, Arvo Pärt và Sergei Nevsky.
Bà không còn kiên nhẫn với tiểu thuyết, kể cả những thứ từng yêu thích: 'Tôi đã thử đọc Platonov, nhưng loại kỳ dị đó không hợp với tôi nữa. Kể cả Tolstoy – tôi đọc ‘Sevastopol’ nhưng không thể chịu nổi sự mê tín nam tính đó nữa.' Bà hứng thú hơn với thể loại không giả tưởng, nhưng khi Nga tiếp tục tách mình khỏi thế giới, càng ngày càng ít sách hay được dịch.
Tuy nhiên, bà vẫn có đủ điều kiện cần thiết để viết: thời gian và sự cô độc. Alexievich suy nghĩ rất nhiều về sự riêng tư của chính mình và những người được phỏng vấn. Câu chuyện cuối cùng trong “Tiếng vọng từ Chernobyl” được kể lại bởi một người phụ nữ chăm sóc người chồng sắp mất.
Đây có phải là điều tôi nên nói ra không? Đây là bí mật – tôi vẫn chưa hiểu hết nó là gì. Ngay cả trong những tháng cuối cùng, anh ấy vẫn gọi tôi vào mỗi buổi tối. Anh ấy khao khát, yêu tôi nhiều hơn bao giờ hết. Ban ngày tôi ngồi nhìn anh ấy và không thể tin được những gì đã xảy ra đêm trước. Chúng tôi không muốn xa nhau. Tôi âu yếm, an ủi anh... Tôi có nên nói về điều đó không? Tôi có thể không? Tôi đến với anh ấy như cách một người đàn ông đến với một người phụ nữ. Tôi có thể làm gì ngoài việc cho anh ấy thuốc? Hy vọng gì đây? Anh ấy không muốn chết.
Nhưng tôi không nói gì với mẹ tôi. Mẹ tôi sẽ không hiểu, bà sẽ phán xét và nguyền rủa chúng tôi. Vì đây không phải là ung thư bình thường mà là ung thư Chernobyl, thậm chí còn tồi tệ hơn. Các bác sĩ bảo rằng nếu các khối u di căn trong cơ thể anh ấy, anh ấy sẽ chết nhanh, nhưng thay vào đó, chúng dần lan khắp người anh ấy, lan lên mặt. Trên người anh ấy có những đốm đen. Cằm và cổ anh ấy biến mất, lưỡi rơi ra, động mạch vỡ ra – anh ấy bắt đầu chảy máu. Máu tuôn ra từ cổ, từ má và tai đến khắp nơi. Tôi mang nước lạnh, khăn ẩm nhưng chẳng có tác dụng gì. Đó là thứ kinh khủng làm ướt cả gối. Tôi sẽ mang một cái bát từ phòng tắm và dòng chảy từ cơ thể anh ấy sẽ tuôn vào đó như dòng sữa. Âm thanh đó nghe thật yên bình và đậm chất thôn quê – đến giờ tôi vẫn nghe thấy hàng đêm.
Khi Alexievich xuất bản một đoạn trích từ cuốn sách, bà đã đổi tên cho người này. “Hai ngày sau đó, cô ấy gọi tôi và hỏi, 'Sao lại đổi tên của tôi?' Bà đã bảo cô ấy, 'Tôi không muốn cô bị lộ trước bất kỳ điều gì xấu xa!' Cô ấy nói, 'Tôi đã chịu đựng quá nhiều, anh ấy đã chịu đựng quá lâu, tôi không muốn có bất kỳ điều gì không phải là sự thật.'
Alexievich giữ ẩn danh cho người kể. Bà đã thuyết phục những người khác, những người mà bà cho là sẵn sàng chấp nhận rủi ro lớn như vậy. 'Đám đông chấp nhận nghệ thuật nhưng chia rẽ con người.' Những đối tượng của bà đôi khi rút lui vì những gì họ từng chia sẻ. Những người phụ nữ trong 'Chiến tranh không có gương mặt phụ nữ' muốn viết lại cuốn sách để thay thế nỗi đau bằng những gì rất tầm thường mà Alexievich muốn loại bỏ. 'Tôi nghĩ, điều đó giống như những người trong ‘Quần đảo ngục tù’ đang cố gắng viết lại sách vậy.'
Giải Nobel đã được trao cho Solzhenitsyn bốn mươi lăm năm trước bà. Hiện tại, bà cảm thấy mình bị bao quanh bởi 'những cái bóng vĩ đại' của các nhà văn Nga từng đoạt Nobel như Bunin, Pasternak, và Solzhenitsyn. 'Tôi cần phải làm việc,' bà nói.
Mytour (Ga Đọc Sách)
Theo New Yorker