Khóa kéo Phéc-mơ-tuya (hoặc dây kéo, phéc-mơ-tuya, tiếng Pháp: fermeture) là một thiết bị phổ biến để ghép tạm thời hai mép vải lại với nhau. Nó thường xuất hiện trong quần áo, vali, túi xách, đồ thể thao, dụng cụ cắm trại và nhiều đồ dùng vải khác. Tên gọi phéc-mơ-tuya xuất phát từ từ tiếng Pháp fermeture, có nghĩa là thiết bị dùng để đóng, khóa, hoặc chốt.
Khóa kéo Phéc-mơ-tuya có nhiều kích cỡ, hình dạng và màu sắc khác nhau. Whitcomb L. Judson, một nhà phát minh người Mỹ từ Chicago, thường được coi là người phát minh ra khóa kéo, tuy nhiên ông chưa bao giờ chế tạo một khóa kéo thực tế. Phương pháp hiện nay, dựa trên các răng đan xen để khóa vào nhau, đã được đặt tên là 'dây buộc không móc' và sau đó được cải tiến để tăng độ tin cậy.
Chi tiết
Khóa kéo Phéc-mơ-tuya chủ yếu gồm hai dải vải, được kết nối với nhau bằng hàng chục hoặc hàng trăm chiếc răng đặc biệt làm từ nhựa hoặc kim loại. Con trượt, điều khiển bằng tay, di chuyển dọc theo các răng. Bên trong con trượt là rãnh hình chữ Y giúp kết nối hoặc tách hai dãy răng đối diện tùy theo hướng di chuyển của nó. Âm thanh đặc trưng phát ra từ sự ma sát giữa con trượt và các răng là nguồn gốc của từ 'zip' trong tiếng Anh.
Một số loại khóa kéo Phéc-mơ-tuya có thể có hai con trượt, cho phép điều chỉnh vị trí và kích thước mở. Đối với hầu hết các áo vét và trang phục tương tự, khóa kéo đóng lại khi con trượt nằm ở hai đầu. Trong khi đó, hầu hết các vali sử dụng khóa kéo sẽ đóng khi hai con trượt nằm cạnh nhau ở bất kỳ vị trí nào trên khóa kéo.
Khóa kéo Phéc-mơ-tuya có thể:
- Mở rộng kích thước của vali để chứa được nhiều đồ hơn.
- Kết nối hoặc tháo rời các phần của trang phục có thể tách rời.
- Dùng làm phụ kiện trang trí.
Khóa kéo Phéc-mơ-tuya có chi phí rất thấp, nhưng khi bị hỏng, trang phục sẽ không sử dụng được trừ khi được sửa chữa hoặc thay thế. Vấn đề thường gặp là con trượt bị hỏng do mòn, nhưng việc sửa chữa rất đơn giản: chỉ cần ép con trượt về vị trí ban đầu.
Những cột mốc lịch sử
Khóa kéo, hay còn gọi là zipper, là một phát minh vĩ đại của Whitcomb L. Judson vào năm 1893. Ngày nay, khóa kéo đã trở nên rất phổ biến, đến mức người ta quên đi giá trị thực sự của nó. Khóa kéo có nhiều màu sắc và kích cỡ khác nhau, bền bỉ và dễ sử dụng.
Thật khó tưởng tượng cuộc sống trước khi có khóa kéo. Vào những năm 1890, người Mỹ thường phải mang giày cao gót với hàng nút dài và trang phục phụ nữ thường có hàng nút, rất bất tiện khi gài hoặc mở. Vì vậy, người ta đã tìm cách thay thế những hàng nút này bằng một phương pháp dễ dàng hơn để mặc và cởi đồ.
Vào năm 1893, kỹ sư Whitcomb L. Judson tại Chicago đã phát minh ra khóa kéo, mà ông gọi là 'dây khóa trượt'. Tuy nhiên, loại khóa này không đủ bền vững và gặp nhiều vấn đề. Tiến sĩ Gideon Sundbäck từ Thụy Điển đã khắc phục điều này bằng cách thiết kế một loại khóa kéo gồm ba phần:
1. Một chuỗi các phần tử bằng nhựa hoặc kim loại, gọi là 'răng', xếp thành hai hàng.
2. Các móc này được gắn vào hai miếng vải co giãn.
3. Một khóa trượt dùng để kết nối các móc lại với nhau. Khi trượt theo chiều ngược lại, khóa này sẽ mở các móc ra.
Tiến sĩ Sundbäck đã gắn các móc vào vải để giữ chúng ngay ngắn và không bị lỏng. Giải pháp này đã khắc phục các vấn đề của những khóa kéo đầu tiên.
Vào năm 1851, Elias Howe đã đăng ký sáng chế một công cụ hình dạng tương tự như khóa kéo, gọi là 'dụng cụ tự động kết nối mép áo quần', nhưng dường như chưa bao giờ được sản xuất. Đến năm 1893, Whitcomb L. Judson đã đăng ký phát minh một loại 'khóa móc' dùng cho giày và ủng, và cố gắng thương mại hóa phát minh này qua Công ty Fastener Universal. Các thiết kế của ông sử dụng móc và khuy. Khóa kéo hiện đại, như chúng ta sử dụng ngày nay, dựa trên các mấu khóa trong và được phát minh bởi Gideon Sundback, một người nhập cư gốc Thụy Điển ở Canada. Vào năm 1913, Sundback, khi là nhà thiết kế hàng đầu tại Công ty Universal Fastener, đã phát minh ra 'khóa cài không khuy' và thiết kế một máy móc phức tạp để sản xuất nó. Phát minh của ông được cấp bằng sáng chế vào năm 1917 cho 'khóa cài rời', và Công ty B.F.Goodrich đã đặt tên là 'Zipper' vào năm 1923 khi sử dụng cho một loại giày cao su của họ.
Trong những năm 1920 và 1930, phéc-mơ-tuya dần trở nên phổ biến trong trang phục trẻ em và nam giới. Vào đầu thập niên 1930, nhà thiết kế thời trang Elsa Schiaparelli đã nổi bật hóa phéc-mơ-tuya trong các mẫu áo choàng nữ tiên phong của bà, giúp phéc-mơ-tuya được chấp nhận trong trang phục nữ. Năm 1934, Tadao Yoshida sáng lập công ty San-Shokai tại Tokyo, sau đó đổi tên thành YKK, và trở thành nhà sản xuất phéc-mơ-tuya và khóa cài lớn nhất thế giới.
Ngày nay, chỉ những công ty hàng đầu như YKK, tập đoàn KCC, và Tex Corp mới sản xuất hàng loạt các loại phéc-mơ-tuya, bao gồm phéc-mơ-tuya 'vô hình', phéc-mơ-tuya kim loại và phéc-mơ-tuya nhựa.
Gần đây, một phát minh mới là phéc-mơ-tuya Excoffier, với một dạng răng phéc-mơ-tuya mới.
Các loại phéc-mơ-tuya
- Phéc-mơ-tuya sợi xoắn: Đây là loại phéc-mơ-tuya cổ điển vẫn được bán hiện nay. Con trượt di chuyển trên hai sợi xoắn ở hai bên của phéc-mơ-tuya. Răng của phéc-mơ-tuya này được tạo thành từ các sợi xoắn, có hai dạng chính: sợi xoắn dạng trôn ốc với lõi xuyên qua hoặc sợi xoắn dạng thang, còn gọi là kiểu Ruhrmann. Kiểu thứ hai hiện chỉ còn được sử dụng hạn chế, chủ yếu ở Nam Á.
- Phéc-mơ-tuya vô hình: Các răng được che giấu sau lớp băng vải, với màu băng vải khớp với màu của trang phục, làm cho phéc-mơ-tuya gần như không thể thấy trừ phần con trượt. Loại này thường được sử dụng cho váy ngắn và dài, và thường là phéc-mơ-tuya sợi xoắn.
- Phéc-mơ-tuya kim loại: Đây là loại thường thấy trên quần bò, với các răng làm từ các mảnh kim loại riêng lẻ, được dập và phân bố đều trên hai bên của phéc-mơ-tuya, không phải là sợi xoắn.
- Phéc-mơ-tuya nhựa: Tương tự như phéc-mơ-tuya kim loại, nhưng các răng được làm từ nhựa thay vì kim loại. Phéc-mơ-tuya nhựa có thể được chế tạo thành nhiều màu sắc từ nhựa nguyên liệu, trong khi phéc-mơ-tuya kim loại có thể được sơn để phù hợp với màu sắc của vật liệu xung quanh.
- Phéc-mơ-tuya đầu-mở: Sử dụng cơ chế 'hộp và gim' để kết nối hai đầu của phéc-mơ-tuya, thường thấy trên áo vét tông.
- Phéc-mơ-tuya đầu-đóng: Được đóng kín ở hai đầu và thường dùng cho các túi xách.
Sản lượng
Nhật Bản hiện sản xuất 68% tổng số phéc-mơ-tuya trên toàn cầu, với phần lớn sản phẩm đến từ YKK. Phần còn lại chủ yếu được sản xuất tại Đông Nam Á.
- Các đội thể thao Đại học Akron
- Khóa lưng
- Cúc
- Kim băng (ghim băng)
- Dây giày
- Cúc bấm
- Khóa dán hay Băng nhám (Velcro)
- Thanh răng và pin hông
- Tập đoàn YKK
- Tex Corp
- Henry Petroski: The Evolution of Useful Things (1992); ISBN 0-679-74039-2
- Robert Friedel: Zipper: An Exploration in Novelty (W. W. Norton and Company: New York, 1996); ISBN 0-393-31365-4
Liên kết tham khảo
- Thông tin về ngành công nghiệp phéc-mơ-tuya
- Lịch sử phát triển của phéc-mơ-tuya
Các bằng sáng chế liên quan
- Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 8540: 'Hệ thống gắn kết cho trang phục & c'
- Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 504037: 'Hệ thống gắn kết giày'
- Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 504038: 'Khóa cài hoặc mở cho giày'
- Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 1060378: 'Khóa cài tách rời'
- Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 1219881: 'Khóa cài tách rời'
- Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 2065250: 'Con trượt'