Về tác giả: Jared Diamond là một nhà Địa lý học tại Đại học Los Angeles, Mỹ. Ông đã được vinh danh với nhiều giải thưởng quý giá, trong đó có Huy chương Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Cuốn Súng, vi trùng và thép (Guns, Germs and Steel) của ông, được xuất bản vào năm 1997, đã giành giải Pulitzer và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất, cùng với cuốn Sụp đổ (Collapse) ra mắt vào cuối năm 2004, đã đưa ông trở thành một trong những tác giả có ảnh hưởng nhất ở Mỹ.
Đoạn văn này được trích từ một bài thuyết giảng của ông tại một bảo tàng, trong đó ông chia sẻ: “Hầu hết các bài thuyết giảng tại bảo tàng thường chỉ nói về những chủ đề có vẻ hấp dẫn nhưng thiếu đi giá trị thực tiễn, ví dụ như chúng không giúp bạn giàu có hơn. Hôm nay, tôi muốn thay đổi quan điểm đó và chia sẻ về lịch sử của việc trở nên giàu có.”
Trong bài viết này, tác giả sử dụng lời nói của mình.
Phác họa Jared Diamond
Trong cuốn sách Súng, vi trùng và thép, tôi đã đặt câu hỏi về lý do lịch sử diễn ra theo nhiều hướng khác nhau trong suốt 13000 năm qua trên lục địa Á - Âu, châu Mỹ, châu Phi dưới Sahara và cả vùng châu Úc dân. Và như bạn đã thấy, trong 500 năm gần đây, người châu Âu đã trở thành những người chinh phục các dân tộc bản địa châu Mỹ, châu Phi dưới Sahara và châu Úc, chứ không phải ngược lại.
Phần lớn cuốn sách tôi quan tâm đến việc so sánh dân cư ở các lục địa khác nhau, nhưng tôi biết mình không thể cho xuất bản một cuốn sách mà không so sánh lịch sử của các lục địa ấy và coi lục địa Á - Âu là một khối mà không đề cập gì đến những vấn đề hấp dẫn ẩn sâu trong nó. Vì sao chính là người Châu Âu, chứ không phải người Trung Quốc, Ấn Độ hay Trung Đông, mới là người chinh phục thế giới và xâm chiếm thuộc địa khác? Tôi dành bảy trang cuối của cuốn Súng, vi trùng và thép để bàn về vấn đề này. Tôi cho rằng mình đã tìm ra lời đáp đúng. Nhưng sau khi cuốn sách được xuất bản, tôi nhận về rất nhiều phản hồi, mà trong đó thú vị nhất là những phản hồi liên quan đến việc phân tích, so sánh lịch sử của các vùng kể trên.
Đặc biệt, bên cạnh những lời đánh giá mà Bill Gates dành cho cuốn sách của tôi, tôi có tới hàng trăm bức thư trao đổi từ các nhà kinh tế học và thương nhân. Họ cho rằng khả năng cao tồn tại sự song song giữa lịch sử xã hội loài người và lịch sử các nhóm dân tộc. Phản hồi này có liên quan đến một câu hỏi lớn: có cách tổ chức nào trong các tổ nhóm và doanh nghiệp giúp tối đa hóa năng suất, kích thích sáng tạo và vươn tới sự giàu có không? Một nhóm người nên có sự tập trung hóa hay nên có sự xáo trộn hay thậm chí là vô tổ chức? Cần duy trì một nhóm duy nhất hay chia thành nhiều nhóm nhỏ? Nên duy trì giao tiếp cởi mở giữa các nhóm hay tạo ra bức tường giữa các thành viên để làm việc bí mật? Và có nên dựng những biểu thuế bảo hộ đối với bên ngoài, hay là tạo điều kiện cho doanh nghiệp và chính phủ cạnh tranh tự do?
Câu hỏi về tổ chức nhóm phát sinh ở nhiều cấp độ, trong các loại hình nhóm khác nhau, bao gồm cả việc tổ chức một chính phủ hay một quốc gia. Vậy cách tốt nhất để quản lý một quốc gia là gì? Các lập luận cổ điển cho rằng, chế độ độc tài ôn hòa, hệ thống liên bang hoặc tự do không chính phủ là những cách tối ưu nhất. Tương tự với một công ty, đố bạn biết vì sao Microsoft ngày càng thành công, vì sao IBM sau công cuộc tái cơ cấu do doanh thu “bết bát” đã thành công hơn cả thời kỳ hưng thịnh nhất trước đó?
Khi tôi còn là một cậu bé lớn lên ở Boston, Route 128 là tuyến đường vành đai công nghiệp của thành phố. Nhưng giờ Route 128 ít được nhớ tới bởi sự bùng nổ của Thung lũng Silicon. Mối quan hệ tương tác của các doanh nghiệp ở hai nơi này cũng khác nhau và có thể dẫn tới những kết quả rất khác.
Luôn tồn tại những khác biệt rõ rệt về hiệu quả giữa các nền kinh tế, khi so sánh năng suất lao động bình quân của Nhật Bản và Hoa Kỳ, của Pháp và Đức. Theo đó, năng suất và sự phát triển của các ngành nghề trong cùng một quốc gia cũng không giống nhau. Ví dụ, ngành sản xuất kim loại của Đức có thể sánh ngang với Hoa Kỳ, chứng tỏ các ngành công nghiệp của Đức rất mạnh, tuy nhiên, ngành sản xuất bia của Đức chỉ đạt sản lượng bằng một nửa Hoa Kỳ. Chúng ta nghĩ rằng thế giới đang hoang tưởng về nền công nghiệp thần kì của Nhật Bản, nhưng đúng là vậy, ngành sản xuất thép ở Nhật hiệu quả hơn ở Mỹ tới 45%. Những cũng đừng ngạc nhiên vì ngành sản xuất thức ăn của Nhật lại chỉ hiệu quả bằng 1/3 của Mỹ. Thêm một ví dụ nữa, ngành sản xuất thép của Hàn Quốc đạt hiệu suất ngang Hoa Kỳ nhưng so mặt bằng chung tất cả các ngành công nghiệp thì lại thua kém và tụt hậu đáng kể. Vậy có phải sự khác biệt trong cơ cấu tổ chức sản xuất bia và thép của Đức, khác biệt trong cơ cấu tổ chức sản xuất thép và thức ăn của Nhật đã tạo ra sản lượng ngành khác nhau?
Các cách tiếp cận sản xuất khác nhau sẽ tạo ra các mức sản lượng khác nhau.
Thành công của một tổ chức phần nào phụ thuộc vào các cá nhân tham gia. Microsoft đã thành công một phần là nhờ Bill Gates. Nếu không có Bill Gates, dù tổ chức hoàn hảo đến đâu, Microsoft có lẽ không thành công như ngày hôm nay. Câu hỏi là, trong dài hạn hoặc một khoảng thời gian nhất định, hình thái tổ chức nào là hiệu quả nhất? Tôi tin rằng nhiều người - những người đang có ý tưởng kinh doanh, muốn biết câu trả lời.
Tôi đã xem xét từ góc độ lịch sử của loài người. Lịch sử hơn 13.000 năm của chúng ta đã trải qua hàng ngàn thử nghiệm khác nhau. Mỗi xã hội loài người đều thể hiện một thử nghiệm về cách tổ chức. Một số hình thái xã hội hiệu quả và sáng tạo hơn những hình thái khác. Vậy học hỏi từ lịch sử nhân loại có giúp chúng ta giàu có hơn không? Hãy khám phá hai thí nghiệm tự nhiên sau.
Thí nghiệm tự nhiên đầu tiên nghiên cứu về ảnh hưởng của sự cô lập, kích thước nhóm và tương tác giữa các nhóm tới năng suất của xã hội loài người. Trước tiên, hãy nói về sự cô lập. Nếu sự cô lập có ảnh hưởng đến loài người, hai hòn đảo Tasmania và Flinders ngoài khơi Đông Nam Australia là minh chứng rõ nhất. Ngày nay, chúng cách xa khoảng 200 dặm ngoài khơi, tách biệt với nước Úc bởi eo biển Bass. 10.000 năm trước, các eo biển tương đối nông, khi mặt nước đóng băng, nhà cửa nằm trên mặt nước biển. Khi các dòng sông băng tan chảy, nước biển dâng lên, cắt Tasmania ra khỏi lục địa. Vì vậy, Tasmania và Flinders vẫn là một phần của Úc.
Băng tan và nước biển dâng khiến dân Tasmania không thể đến đất liền vì thuyền bè của họ chìm sau vài chục giờ. Các tàu thuyền từ đất liền của thổ dân Úc cũng không thể tiếp cận Tasmania.
Vì vậy, quần đảo này là một mô hình nghiên cứu về sự cô lập chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. 4000 người trên đảo không có mối liên kết nào với đất liền cho đến năm 1642, khi người Châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần đảo. Vậy cái gì đã tách rời cộng đồng 4000 người ở Tasmania và cộng đồng 200 người trên đảo Flinders với thế giới bên ngoài trong suốt 10.000 năm?
Người Châu Âu phát hiện Tasmania vào thế kỉ 17, thời kỳ sơ khai của khoa học công nghệ trong xã hội hiện đại. Nhưng ở quần đảo này, không có ngọn lửa, không có công cụ đá hoặc xương, không có vũ khí, và họ không thể phân biệt cá với các loài động vật khác. Có thể rằng, việc sử dụng công cụ tiên tiến đã khiến 4000 người Tasmania bị cô lập, những người không có phát minh nào. Tuy nhiên, nhà khảo cổ đã phát hiện ra rằng trong 10.000 năm cô lập, người Tasmania không mất khả năng sáng tạo, họ chỉ mất đi các công cụ quan trọng nhất.
Ảnh chụp bốn người Tasmania cuối cùng vào năm 1860
Làm thế nào để giải thích sự mất mát văn hóa của Tasmania khi họ không phát minh ra công cụ? Thiệt hại ở Flinders còn nghiêm trọng hơn khi 200 dân tộc đã biến mất hàng thiên niên kỷ trước. Rõ ràng rằng, trong các xã hội nhỏ bị cô lập, có điều gì đó ngăn cản sự truyền bá của các phát minh hoặc tiến bộ diễn ra chậm rãi. Điều này không chỉ xảy ra ở Tasmania và Flinders mà còn ở nhiều xã hội cô lập khác.
Để hiểu rõ hơn về sự mất mát trong các xã hội cô lập, hãy xem xét trường hợp của Nhật Bản, nơi một xã hội văn minh đã trải qua và ghi lại sự mất mát của vũ khí. Súng đã đến Nhật lần đầu vào năm 1543, khi hai thám hiểm Bồ Đào Nha đến bờ biển và sử dụng súng để bắn con vịt. Hai quý tộc Nhật chứng kiến sự kiện này và quyết định mua khẩu súng với giá 10.000 USD. Một thập kỷ sau đó, Nhật Bản có nhiều khẩu súng hơn bất kỳ quốc gia nào, nhưng sau đó họ đã quên đi về súng.
Trong quân đội Nhật thời đó, có một đội quân gọi là Samurai. Samurai đứng hàng đầu, hô khẩu hiệu và đáp lại để tăng động viên cho quân lính. Samurai nhận ra rằng, súng sẽ làm họ chết đầu tiên. Họ đề xuất hạn chế cấp phép cho việc sản xuất súng. Sau đó, chỉ còn ba nhà máy được phép sửa chữa súng. Ba nhà máy này sản xuất 100 khẩu một năm, sau đó giảm xuống mười khẩu một năm, rồi ba khẩu một năm. Đến năm 1840, thuyền trưởng kì cựu Commodore Perry của quân đội Mỹ đến thăm Nhật và không thấy súng nào nữa. Không thể phủ nhận rằng Nhật Bản đã mất một công nghệ mạnh mẽ.
Khi súng ống đến Châu Âu, một số hoàng tử ra lệnh cấm, có người cấm cả in ấn. Nhưng khi thấy hoàng tử của các quốc gia lân cận cầm súng, họ biết mình đã sai. Các quốc gia này nhanh chóng nhập khẩu súng trở lại và thậm chí tìm cách chiếm đoạt vũ khí của nhau. Mất mát ở Nhật Bản là do quần đảo này bị cô lập, không có kẻ thù và không biết làm thế nào để chiếm đoạt vũ khí của người khác.
Câu chuyện về các xã hội cô lập minh họa hai nguyên tắc chung trong mối quan hệ giữa đặc tính nhóm và các phát minh, sáng tạo. Thứ nhất, trong hầu hết các xã hội (trừ những xã hội hoàn toàn cô lập), các phát minh chủ yếu được nhập khẩu từ bên ngoài, không phải tự sinh trong xã hội đó. Thứ hai, mọi xã hội đều bị ảnh hưởng bởi các xu hướng và sở thích của người dân. Cạnh tranh giữa các xã hội thúc đẩy sự phát triển công nghệ và tiếp tục sự phát triển của công nghệ hiện có. Chỉ ở xã hội cô lập, nơi không có cạnh tranh, các trào lưu công nghệ có giá trị mới có thể mất đi vĩnh viễn.
Một bài học khác từ lịch sử là nguyên tắc phân chia tối ưu. Câu hỏi cụ thể là, các nhóm nhân viên trong bảo tàng, doanh nghiệp, ngành sản xuất bia Đức, hay Route 128 nên hoạt động dựa trên mô hình tổ chức lớn hay chia nhỏ thành nhiều nhóm nhỏ? Cách tổ chức nhóm hiệu quả nhất là gì?
Hãy so sánh lịch sử của Trung Quốc và Châu Âu. Tại sao công nghệ ở thời kỳ Phục hưng của Trung Quốc kém hơn Châu Âu? Nhiều người cho rằng đó là do tôn giáo, khi Nho giáo ở Trung Quốc khá bảo thủ trong khi Công giáo ở Châu Âu luôn khuyến khích sự sáng tạo khoa học. Để hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của tư tưởng Do thái và Thiên chúa giáo đối với các phát minh, cần phải thảo luận về Galileo và các phát minh phục hưng sau này. Ban đầu, người Trung Quốc dẫn đầu thế giới với nhiều phát minh như la bàn, gang, khóa cửa, bột súng, giấy, máy in, bánh lái...
Tuy nhiên, Trung Quốc cuối cùng đã mất vị thế dẫn đầu cho Châu Âu. Về phương tiện vận chuyển biển, đến năm 1400, Trung Quốc sở hữu số lượng, chất lượng và khả năng di chuyển xa nhất. Các tàu Trung Quốc có thể đi qua nhiều vùng biển rộng lớn trên thế giới. Từ năm 1405 đến 1432, Trung Quốc đã cử 7 đội hạm gồm hàng trăm tàu ra khỏi lãnh thổ để tìm kiếm kho báu. Số lượng thủy thủ lên đến 20.000 người. Đội hạm khổng lồ đã đi từ Trung Quốc tới Indonesia, Ấn Độ, Ả Rập và bờ biển phía Đông châu Phi. Họ có vẻ đã đi qua Mũi Hảo Vọng, đến bờ Tây châu Phi và thậm chí xâm chiếm châu Âu.
Ngành công nghiệp tàu biển của Trung Quốc đã đạt đến hồi kết khi đất nước này trải qua giai đoạn cô lập, như ai cũng thấy trong lịch sử của nhiều quốc gia. Năm 1432, Trung Quốc có một Hoàng đế mới. Hoàng đế ủng hộ phe chống hải quân và cho rằng chi tiêu tiền bạc vào hạm đội là lãng phí. Ông ra lệnh tháo dỡ tất cả các nhà máy đóng tàu, ngừng sản xuất tàu trên toàn quốc. Truyền thống đóng tàu và đi biển của người Trung Quốc từ đó mất đi chỉ vì quyết định của một người. Do đó, Trung Quốc phải ngậm ngùi xếp sau Mỹ và Anh, dù Mỹ chỉ vượt qua khủng hoảng lớn vào năm 1930 và Anh mới phát minh ra đèn điện vào năm 1920. Trung Quốc lúc đó không khác gì một hòn đảo khổng lồ, bị cô lập như Tasmania.
Câu chuyện về đội tàu viễn dương của Châu Âu lại hoàn toàn trái ngược với Trung Quốc. Columbus là người Ý và ông muốn lái tàu vượt Đại Tây Dương, nhưng người Ý cho rằng đó là một ý tưởng ngớ ngẩn và không ủng hộ. Ông đã đến Pháp sau đó Bồ Đào Nha để tìm sự giúp đỡ nhưng người Pháp và Bồ Đào Nha cũng chế nhạo ông. Columbus đã đến rìa Tây Ban Nha để viếng thăm một vị bá tước, nhưng cũng bị từ chối. Sau đó ông thể hiện mong muốn của mình với nhà vua và hoàng hậu Tây Ban Nha, nhưng họ cũng cho rằng đây là ý tưởng tốn kém và tốn thời gian.
Cuối cùng, sau lần thỉnh cầu thứ bảy, nhà vua và hoàng hậu đã đồng ý cung cấp ba chiếc thuyền nhỏ cho Columbus. Và chúng ta đều biết ông đã vượt qua Đại Tây Dương, khám phá Thế giới mới và trở về Châu Âu như thế nào. Những người đi theo Columbus đều trở nên giàu có và quyền lực. Trong thời gian ngắn sau đó, 11 quốc gia Châu Âu đã tham gia vào cuộc chiến thuộc địa. Bản chất của những sự kiện này là do châu Âu đã chia thành nhiều mảnh, nhiều quốc gia nên Columbus có nhiều cơ hội.
Tương tự, Trung Quốc cũng gặp phải vấn đề tương tự với việc sản xuất đồng hồ: Một quyết định của một Hoàng đế đã đình chỉ toàn bộ ngành sản xuất đồng hồ trên khắp Trung Quốc vào thời điểm đó. Trung Quốc đang chuẩn bị phát minh động cơ chạy bằng hơi nước, tiên phong trước cả Cách mạng công nghiệp ở Anh, nhưng chỉ một mệnh lệnh “Dừng lại”, làm cho công nghệ này bị triệt tiêu hoàn toàn. Ngược lại, ở châu Âu thời kỳ Phục hưng, dù có những hoàng tử phản đối đèn điện, in ấn, súng ống, nhưng chia rẽ thành 2000 công quốc nhỏ giúp công nghệ không bị mất đi vì quyết định của một người ngốc nghếch. Các nhà sáng chế có nhiều cơ hội và luôn có sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Khi một quốc gia trân trọng một giá trị nào đó, quốc gia láng giềng cũng nhìn thấy tiềm năng và muốn chiếm đoạt nó. Vậy câu hỏi lúc này là: tại sao Trung Quốc bao đời tìm đến sự thống nhất, trong khi các nước Châu Âu luôn cố gắng phân chia?
Câu trả lời nằm ở vị trí địa lý. Hãy nhìn vào bản đồ của Trung Quốc và Châu Âu. Trung Quốc có bờ biển dài, phẳng phiu, trong khi bờ biển của Châu Âu gồ ghề, mỗi bờ bị thụt vào tạo thành một bán đảo. Sau này các bán đảo trở thành các quốc gia độc lập như bán đảo Hy Lạp, bán đảo Ibera, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển... Châu Âu có hai hòn đảo lớn đã giành được độc lập là Anh và Ai-len trong khi Trung Quốc không có hòn đảo nào đủ lớn để hình thành một quốc gia cho đến khi xuất hiện hòn đảo ngày nay là Đài Loan. Châu Âu bị chia cắt bởi dãy núi, Alps, Pyrenees, Carpathians chia lục địa thành nhiều quốc gia nhỏ. Trung Quốc không có dãy núi nào chia cắt đất nước.
Châu Âu có những con sông lớn chảy xuyên qua như sông Rhine, Rhone, sông Danube, Elbe nhưng Trung Quốc chỉ có hai con sông lớn chảy song song, được ngăn cách bởi vùng đất trũng nên sau đó nhanh chóng được nối thành các kênh rạch.
Vì lý do địa lý, Trung Quốc đã thống nhất vào năm 221 TCN và gần như duy trì được sự thống nhất đó. Trong khi Châu Âu chưa bao giờ thống nhất. Augustus không thể làm điều đó, Charlemagne không thể làm điều đó, cả Napoleon và Hitler cũng không thống nhất được Châu Âu. Đến nay, Liên minh Châu Âu vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc thống nhất nội bộ.
Vậy, bài học ở đây là cuộc cạnh tranh giữa các nhóm người, các quốc gia đã giúp Châu Âu phát triển trong khi quyền năng vô hình của kẻ làm vua đã ngăn chặn sự đổi mới ở Trung Quốc. Kinh nghiệm đổi mới mà Trung Quốc có được là do khoảng thời gian đấu tranh để đi tới thống nhất hoặc nhờ vào kẻ xâm lược bên ngoài.
Điều này cũng áp dụng ở hiện tại. Cách đây 20 năm, một số quyết định ngớ ngẩn của lãnh đạo ở quốc gia đông dân nhất thế giới này đã hạn chế hệ thống giáo dục trong khi cuộc cách mạng văn hóa, giáo dục, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ. Những người ngớ ngẩn này không thể tồn tại ở Châu Âu. Vậy liệu ví dụ của Châu Âu có chứng minh việc chia nhỏ thành nhiều mảng là tốt hơn? Có lẽ không. Vì Ấn Độ là quốc gia phân mảnh hơn cả Châu Âu, nhưng quốc gia này trước đây thua xa Châu Âu.
Vậy không phân mảnh quá nhiều cũng không tốt. Xã hội muốn tiến bộ và đổi mới nhanh chóng cần sự phân chia hợp lý.
Hãy áp dụng những điều trên vào quá trình làm giàu của mỗi cá nhân. Ví dụ, ngành công nghiệp hiện đại, giàu có như Mỹ và Nhật Bản. Tôi nghĩ rằng hiệu suất ngành công nghiệp của Nhật và Đức cao hơn Mỹ nhưng thực ra không phải vậy. Khi chia trung bình, hiệu suất của Mỹ lại cao hơn. Con số trung bình này giấu đi sự khác biệt giữa các ngành trong một quốc gia và sự khác biệt trong cách tổ chức.
Ví dụ, ngành công nghiệp bia của Đức chỉ đạt được hiệu suất bằng 43% so với Hoa Kỳ trong khi ngành sản xuất thép và kim loại đạt sản lượng tương đương. Bia của Đức nổi tiếng khắp thế giới, mỗi khi tôi và vợ đến Đức đều mang theo một vali trống để mua thêm. Vậy tại sao người Đức không thành công trong sản xuất bia như sản xuất thép và kim loại?
Quy mô sản xuất bia ở Đức khá nhỏ, có khoảng 1000 công ty bia địa phương. Các công ty không cạnh tranh vì được độc quyền sản xuất ở địa phương và được hưởng các chính sách bảo hộ trước bia nhập khẩu. Mỹ có 67 nhà máy bia lớn, sản xuất ra 23 tỷ lít bia mỗi năm trong khi 1000 nhà máy của Đức chỉ sản xuất bằng một nửa. Trung bình, một nhà máy bia của Mỹ có hiệu suất gấp 31 lần của Đức.
Sự chênh lệch này phần nào là do thị hiếu địa phương và chính sách của Chính phủ. Người Đức rất trung thành với thương hiệu nội địa. Họ không quá quan tâm đến sự khác biệt giữa các thương hiệu vì bia thường được tiêu thụ trong bán kính 30 dặm từ nơi sản xuất. Trong khi đó, người Mỹ thì luôn biết rõ thương hiệu của mình từ Budweiser, Miller hoặc Coors.
Budweiser – thương hiệu bia Mỹ nổi tiếng trên toàn thế giới
Ngành sản xuất bia ở Đức không thể sinh lời lớn do quy mô kinh tế của đất nước. Người Đức tin tưởng vào bia Đức cũng phần lớn là do quy định của chính phủ. Bia nhập khẩu khó có thể cạnh tranh do chính sách về độ tinh khiết, mà các bia nước khác như Mỹ, Pháp hay Thụy Điển khó tuân thủ. Do đó, bia Đức gặp khó khăn khi xuất khẩu. Người tiêu dùng Mỹ mua bia Lowenbrau của Đức thì thường nhìn thấy thông báo: “Bia này không sản xuất tại Đức mà được sản xuất trên đường truyền của Mỹ.” Cũng vì lẽ đó mà ngành công nghiệp xà phòng và điện tử tiêu dùng ở Đức cũng không hiệu quả vì thiếu sự cạnh tranh.
Nhược điểm của ngành sản xuất bia ở Đức đã chứng minh thêm lý thuyết về việc quá nhiều nhóm nhỏ và không cạnh tranh sẽ dẫn đến kém hiệu quả. Nhìn vào ngành chế biến ở Nhật Bản với 67.000 công ty nhưng chỉ đạt hiệu suất trung bình bằng 32% của Mỹ (Mỹ có khoảng 21.000 công ty). Mặc dù dân số Mỹ nhiều hơn Nhật Bản nhiều, nhưng khi chia trung bình, Mỹ vẫn vượt Nhật tới 6 lần.
Tương tự như lòng tin của người Đức, người Nhật tin tưởng hoàn toàn vào thực phẩm tươi sống. Nếu bạn từng đến Nhật, bạn sẽ biết họ đánh giá cao ngày tháng trên bao bì thực phẩm. Hộp sữa ở Mỹ chỉ có dấu ngày hết hạn, trong khi ở Nhật, họ luôn ghi rõ 3 loại ngày tháng: ngày sản xuất, ngày tới cửa hàng và ngày hết hạn. Sữa được sản xuất vào buổi tối và đưa vào cửa hàng vào buổi sáng. Nếu hộp sữa ra khỏi lò 11:59 PM (tức là hôm qua), nhiều người Nhật sẽ không mua. Vì vậy, ngành sản xuất sữa là một ngành độc quyền địa phương. Một nhà máy ở Hokkaido rõ ràng không thể cạnh tranh với nhà máy ở Kyushu, vì khi sữa được chuyển đến Kyushu, không ai muốn mua nữa.
Sự tôn kính về thực phẩm sạch đã tạo ra một mô hình độc quyền địa phương. Hơn nữa, chính phủ Nhật cũng áp dụng các chính sách để ủng hộ các doanh nghiệp địa phương. Chính phủ ngăn chặn nhập khẩu các sản phẩm thực phẩm có thời hạn sử dụng ít hơn mười ngày như thịt bò Mỹ và thịt gà vì không được người tiêu dùng ưa chuộng.
Kết quả là các doanh nghiệp Nhật không cạnh tranh trên thị trường nội địa và cũng không phải đối mặt với đối thủ từ nước ngoài. Thịt bò đã trở thành một món xa xỉ ở Nhật với giá khoảng 200 USD/1 pound (tương đương 0.45 kg), còn thịt gà có giá 25 USD/1 pound.
Tất nhiên, điều này không đúng với các ngành công nghiệp khác của Nhật như thép, kim loại, ô tô và các ngành công nghiệp điện tử hiện đại với các đối tác từ Mỹ.
Vậy với các ngành công nghiệp ở Mỹ thì sao? Như tôi đã đề cập về sự thống trị của Silicon Valley so với Route 128, sau khi xuất bản cuốn sách “Súng, vi trùng và thép”, tôi đã có nhiều cuộc trao đổi với các chuyên gia về hai khu vực này. Họ cho biết các công ty ở Silicon Valley thường cạnh tranh khốc liệt, điều đó là điều hiển nhiên. Họ sẵn sàng chia sẻ thông tin và thậm chí mua bán ý tưởng để có lợi ích cho bản thân. Trong khi ở Route 128, các ý tưởng kinh doanh thường được bảo mật và tách biệt như các công ty sản xuất sữa ở Nhật Bản.
Điều này cũng phản ánh rõ sự khác biệt giữa Microsoft và IBM. Tôi đã thảo luận với bạn bè làm việc tại Microsoft để hiểu về mô hình hoạt động của công ty này. Tôi ấn tượng với cách làm việc theo nhóm nhỏ, từ 5 đến 10 người, luôn tiếp xúc và trao đổi ý tưởng. Những đơn vị này được thành lập một cách linh hoạt và có thể tan rã. Trái lại, IBM của 4 năm trước hoạt động theo mô hình các nhóm kín đáo dẫn đến sự mất khả năng cạnh tranh bên trong công ty. Sau khi CEO mới Ginni Rometty lên nắm quyền, bà đã quyết định thay đổi mô hình hoạt động theo hướng mở cửa giống như Microsoft và giúp công ty đạt được những thành tựu đáng kể.
IBM đã trở nên mạnh mẽ hơn sau khi thay đổi cách tổ chức
Nếu nhìn vào lịch sử của loài người, chúng ta có thể nhận ra một số nguyên tắc không thể phủ nhận. Đầu tiên, sự cô lập không mang lại lợi ích vì hầu hết các nhóm đều thu thập ý tưởng từ bên ngoài. Thứ hai, nguyên tắc phân mảnh lý tưởng không khuyến khích sự thống nhất quá mức, cũng như không chia nhỏ thành quá nhiều mảnh. Để xã hội hoạt động hiệu quả, cần tạo ra một số nhóm cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo sự liên kết và giao lưu tự do. Điều này có thể là chìa khóa đến sự thịnh vượng của một tổ chức kinh doanh.
Tuy nhiên, để kết thúc, hãy nhìn vào một số hạn chế, như “xét trong hoàn cảnh mọi thứ đều bằng nhau”. Một tổ chức tốt cũng sẽ thất bại nếu giao phó cho một kẻ ngốc. Cũng như Microsoft cần Bill Gates để thành công như ngày hôm nay.
Ngoài ra, cũng đã đề cập đến điều kiện để tối đa hóa năng suất, khuyến khích sáng tạo và sinh lời. Có nhiều yếu tố khác cần xem xét trong một tổ chức, không phải lúc nào năng suất cũng là yếu tố quan trọng nhất. Có những tình huống mà sự tập trung là cần thiết hơn, giống như trong một trận chiến. Tuy nhiên, không nên cân nhắc tối ưu hóa năng suất trong gia đình. Nhớ rằng, nếu bạn nói với vợ rằng ai kiếm nhiều tiền hơn sẽ được nghỉ ngơi, ai kiếm ít hơn sẽ phải làm mọi việc nhà, thì kết quả có thể rất tồi tệ!
Trong gia đình và một số tổ chức đặc biệt, không nên dùng năng suất để đánh giá hiệu quả của cá nhân hoặc nhóm. Tuy nhiên, với các tổ chức như doanh nghiệp, ngành công nghiệp, quốc gia, năng suất là yếu tố quan trọng nhất. Để tiến tới sự giàu có và thịnh vượng, chúng ta có thể thử nghiệm các mô hình tổ chức khác nhau trong doanh nghiệp và xem doanh nghiệp nào sẽ phá sản trước (nếu bạn đủ tài nguyên). Hy vọng rằng việc nhìn lại lịch sử và so sánh các mô hình tổ chức sẽ mang lại nhiều bài học quý giá.
Mytour (Trạm Đọc)
Kim Tiến dịch/Từ Edge