Đầm Lập An | |
---|---|
Bè nổi cho du khách trên đầm Lập An | |
Wikimedia | © OpenStreetMap | |
Vị trí | Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế |
Loại | Đầm phá |
Nguồn sông | Hói Mít, Hói Dừa |
Nguồn nước biển/đại dương | Vịnh Lăng Cô |
Lưu vực quốc gia | Việt Nam |
Chiều dài tối đa | 6 kilômét (3,7 mi) |
Chiều rộng tối đa | 3,5 kilômét (2,2 mi) |
Diện tích bề mặt | 16,47 kilômét vuông (1.647 ha) |
Độ sâu trung bình | 1,2–1,8 mét (3,9–5,9 ft) |
Đầm An Lập (còn được biết đến với tên gọi Đầm An Cư, Vụng An Cư hoặc Đầm Lăng Cô) là một vùng đầm nước lợ nằm bên đèo Phú Gia, cạnh vịnh Lăng Cô, thuộc địa phận thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là một trong những đầm phá nổi bật của Miền Trung Việt Nam.
Tọa lạc ở khu vực núi Hải Vân – Bạch Mã, Đầm An Lập nằm trong vùng chuyển tiếp khí hậu Bắc – Nam, nơi có lượng mưa lớn. Đầm có lưu vực rộng 71 kilômét vuông (7.100 ha), diện tích mặt nước 16,47 kilômét vuông (1.647 ha), với hai nguồn nước chính là sông suối và biển. Đầm còn nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa bán nhật triều không đều và nhật triều không đều. Nhiệt độ nước của Đầm An Lập dao động từ 18–31 °C.
Nằm ở rìa đông bắc của hệ kiến tạo Trường Sơn, Đầm An Lập có lịch sử gắn liền với quá trình mài mòn vũng và vịnh. Đầm hình thành qua 4 giai đoạn: thung lũng chân núi, đầm lầy ven biển, vịnh biển và đầm phá. Trong đầm xuất hiện 8 loại trầm tích tương ứng với 8 kiểu môi trường khác nhau. Khu vực này có hệ động thực vật phong phú, với rừng ngập mặn là điểm nhấn.
Kinh tế tại Đầm An Lập rất phong phú, chủ yếu tập trung vào khai thác thủy sản, đặc biệt là hàu. Đây là nguồn cung hàu lớn nhất của vịnh Lăng Cô. Với tiềm năng du lịch nổi bật, đầm đã được đưa vào kế hoạch phát triển tổng thể của khu du lịch Lăng Cô – Cảnh Dương đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 của tỉnh Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, Đầm An Lập vẫn đối mặt với nhiều thách thức về xã hội, sinh học và môi trường.
Tên gọi
Theo các bậc cao niên, Đầm An Lập trước đây được gọi là Đầm Làng Cò, vì hệ sinh thái quanh đầm rất đa dạng, thu hút nhiều đàn cò về đây sinh sống. Thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã đọc tên đầm thành 'Lăng Cô'. Sau Chiến tranh Việt Nam, đầm được đổi tên thành Lập An.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, trong triều đại nhà Nguyễn, Đầm An Lập được gọi là Đầm Sam do có nhiều con sam trong đầm. Ngoài tên Đầm Sam, đầm còn được biết đến với các tên khác như Đầm Hậu, Đầm An Cư, Vịnh Sò.
Địa lý
Đầm An Lập nằm ở phía tây bờ Vịnh Lăng Cô, kéo dài từ chân Đèo Phú Gia đến cửa biển Hải Vân, và được bao quanh bởi dãy núi Bạch Mã. Đầm thuộc thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế khoảng 60 kilômét (37 mi) về phía Đông Nam theo Quốc lộ 1, tuyến Đà Nẵng – Huế.
Là một trong những đầm phá tiêu biểu của Miền Trung Việt Nam, Đầm An Lập có tọa độ từ vĩ độ 11° đến 16° bắc, thuộc loại đầm phá kín một phần, với quy mô nhỏ và có hình dạng đặc trưng.
Khí hậu
Nằm giữa hai khối núi Hải Vân và Bạch Mã, Đầm An Lập phân chia ranh giới giữa hai miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận chí tuyến bắc và nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Đầm có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh vừa, đặc trưng cho phần phía nam khu vực Bắc Trung Bộ, và có lượng mưa lớn.
Thủy văn
Đầm An Lập có diện tích lưu vực khoảng 71 kilômét vuông (7.100 ha). Diện tích mặt nước của đầm là 16,47 kilômét vuông (1.647 ha), phụ thuộc vào chế độ thủy triều và lượng mưa. Đầm có chiều dài 6 kilômét (3,7 mi), rộng 3,5 kilômét (2,2 mi), và độ sâu trung bình từ 1,2 đến 1,8 mét (3,9 đến 5,9 ft). Cửa đầm hẹp và sâu, dài 1.000 mét (0,62 mi) và rộng 150 mét (0,093 mi), với độ sâu dao động từ 1 đến 8 mét (3,3 đến 26,2 ft), nằm ở phía nam của khối núi Hải Vân. Nguồn nước của Đầm An Lập hòa quyện giữa nước từ Vịnh Lăng Cô, hai con sông nhỏ (Hói Mít và Hói Dừa), và các khe suối từ các dãy núi xung quanh. Trong mùa mưa, nguồn nước ngọt vào đầm khá dồi dào, còn mùa hè lượng nước có thể giảm nhưng vẫn có nước từ các khe suối.
Mực nước của Đầm An Lập dao động trong khu vực chuyển tiếp giữa bán nhật triều không đều và nhật triều không đều. Tại Cửa Lăng Cô, mực nước triều trung bình là −8 xentimét (−0,080 m), với mực nước cao nhất đạt 106 xentimét (1,06 m) và thấp nhất giảm đến −77 xentimét (−0,77 m). Độ lớn của thủy triều cực đại là 87 xentimét (0,87 m), cực tiểu là 48 xentimét (0,48 m), và trung bình là 42 xentimét (0,42 m). Biên độ dao động của thủy triều có thể lên đến 90 xentimét (0,90 m).
Đặc điểm nguồn nước
Theo số liệu quan trắc từ Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ sinh học thuộc Đại học Huế (giai đoạn 2005–2008), nhiệt độ nước của Đầm An Lập dao động từ 18 đến 31 °C, độ pH từ 7,4 đến 8,5‰, và độ đục từ 0 đến 18 NTU. Hàm lượng chất rắn lơ lửng dao động từ 38 đến 186 mg/l, vượt mức an toàn cho tắm (25 mg/l) và nuôi thủy sản (50 mg/l) theo TCVN 5943–1995.
Hàm lượng các chất hữu cơ như BOD5 ở mức 0,5–1,6 mg/l và chỉ số oxy hòa tan từ 5,6 đến 6,9 mg/l, đáp ứng TCVN 5943–1995. Chỉ số COD ở mức cao (10,2–20,5 mg/l) không đạt Quy chuẩn Kỹ thuật quốc gia 10:2008/BTNMT. Amoni trong nước luôn cao (0,63–0,65 mg/l) so với tiêu chuẩn (0,1–0,5 mg/l), trong khi chỉ số P-PO43- luôn dưới 0,01 mg/l, không có nguy cơ thừa dinh dưỡng.
Lượng kim loại nặng trong nước Đầm An Lập được xác định là trong giới hạn an toàn, với hàm lượng sắt ổn định từ 0,01 đến 0,24 mg/l và chì từ 0,76 đến 1,27 µg/l. Tuy nhiên, thành phần coliform dao động từ 0 đến 10.000 MPN/100 ml, thường vượt mức an toàn (1.000 MPN/100 ml).
Lịch sử hình thành và cấu trúc địa chất
Đầm An Lập nằm ở rìa đông bắc của đới kiến trúc hesinit Trường Sơn, có hình dạng giống như một chiếc túi nước lớn ăn sâu vào đất liền. Lịch sử hình thành của đầm phản ánh quá trình mài mòn vũng và vịnh, với lớp trầm tích hiện đại phía bắc chứa nhiều lớp hàu vôi bị chôn vùi.
Quá trình hình thành Đầm Lập An trải qua 4 giai đoạn chính. Đầu tiên là giai đoạn thung lũng chân núi trước khi biển tiến vào Holocen, tạo thành một thung lũng ven núi; sau đó là giai đoạn đầm lầy ven biển cách đây 7–8 nghìn năm, khi biển tiến vào Thừa Thiên Huế, biến Đầm Lập An thành hồ nước ngọt và sau đó thành đầm lầy; tiếp theo là giai đoạn vịnh biển, khi biển tiến mạnh nhất từ 7–8 nghìn năm đến 5–6 nghìn năm trước, tạo thành vịnh biển rộng khoảng 6 km và mở rộng diện tích mặt vịnh; cuối cùng là giai đoạn đầm phá từ 5–6 nghìn năm trước, khi bồi tụ và sự dâng chậm của nước biển biến vịnh thành đầm. Đê cát chắn của đầm có chiều cao từ 6 đến 18 m, bao gồm hai thế hệ: thế hệ đầu từ đèo Phú Gia và núi Đá Kép thuộc thế Holocene sớm – giữa, và thế hệ thứ hai từ núi Tròn chạy dọc theo hướng tây bắc – đông nam thuộc thế Holocene muộn.
Quá trình mài mòn vũng và vịnh của Đầm Lập An tương ứng với sự hình thành đê cát thế hệ đầu. Một nghiên cứu năm 2008 chỉ ra rằng đầm có 8 loại trầm tích: cát lớn, cát trung, cát nhỏ, bột lớn, bùn bột nhỏ, bùn sét bột, bùn sét và cát nhỏ lẫn cuội sỏi không phân chia. Các trầm tích này hiện diện trong 8 kiểu môi trường khác nhau, bao gồm cửa sông suối, ven đầm phá, lòng đầm phá, lạch triều, cửa đầm phá, biển nông ven bờ và đá gốc. Đá gốc chiếm 70% chiều dài của đầm.
Cấu trúc môi trường địa chất của Đầm Lập An theo phương thẳng đứng khá đơn giản: tầng móng gồm đá granit biotit, granit hai mica thuộc phức hệ Hải Vân, sa thạch dạng quaczit, đá phiến thạch anh–mica, đá phiến thạch anh-sericit, đá phiến sericit-clorit (độ dày 500–1000 m) thuộc phân hệ tầng dưới của hệ tầng Long Đại. Tầng phủ gồm các thành tạo bở rời đa nguồn gốc thuộc hệ tầng Phú Bài, hệ tầng Phú Vang và trầm tích Holocene (muộn và hiện đại), với độ dày 40 m. Cấu trúc ngang phức tạp hơn với nhiều phân vị khác nhau, tương ứng với môi trường đầm phá ven bờ, bãi triều, vi châu thổ đầm phá, lòng chảo đầm phá và nơi lắng đọng trầm tích hạt nhỏ kiểu đầm hồ điển hình.
Hệ động thực vật
Theo khảo sát năm 1998 của Viện Tài nguyên và Môi trường biển, khu vực Vịnh Chân Mây – Đầm Lập An có tổng cộng 702 loài. Trong đó, thực vật phù du chiếm số lượng lớn nhất với 194 loài, tiếp theo là cá với 188 loài, san hô với 95 loài, động vật phù du với 78 loài, rong tảo với 51 loài, thân mềm với 39 loài, thực vật ngập mặn với 25 loài, giáp xác với 22 loài, và cỏ biển với 7 loài. Da gai và tay cuộn có số lượng ít nhất với mỗi ngành chỉ 1 loài.
Đầm Lập An là môi trường sống của 382 loài thực vật trên cạn, 35 loài thú, 57 loài chim, và 21 loài ếch nhái. Hệ thực vật thay đổi theo mùa với 132 loài vào mùa mưa và 170 loài vào mùa khô. Trong đầm có 3 loài cỏ biển thuộc 3 chi và 2 họ, với loài cỏ hẹ tròn là loài chiếm ưu thế, tiếp theo là cỏ bò biển và cỏ xoan biển. Đầm cũng là nơi sinh sống của 135 loài rong biển, phân bổ theo ngành: rong Đỏ có 68 loài, rong Nâu có 35 loài, rong Lục có 24 loài và rong Lam có 8 loài.
Theo khảo sát của Viện Hải dương học Nha Trang năm 2004, khu vực Đầm Lập An có 144 loài thực vật phù du khác nhau. Trong đó, 114 loài xuất hiện trong mùa mưa và 115 loài trong mùa khô. Loài chiếm số lượng lớn nhất là tảo cát, tiếp đến là tảo đơn bào hai roi. Trong các loài tảo, có 17 loài được xác nhận là độc hại (mùa mưa 14 loài và mùa khô 10 loài).
Thực vật ngập mặn tại Đầm Lập An không chỉ có diện tích lớn nhất mà còn đa dạng nhất trong khu vực Thừa Thiên Huế, với 33 loài thuộc 32 chi, 25 họ và 2 ngành (Dương xỉ và Ngọc lan), phân bố tập trung thành 5 khu vực khác nhau trong đầm.
Kinh tế
Trong giai đoạn từ 1975 đến 1986, các hoạt động kinh tế tại Đầm Lập An chủ yếu tập trung vào sản xuất nông lâm nghiệp như trồng dừa và cây lương thực, cùng với việc khai thác muối. Những hoạt động này thường chỉ kéo dài ngắn hạn và không đạt hiệu quả cao. Đến cuối thế kỷ 20, nghề nuôi tôm sú mới xuất hiện và nhanh chóng phát triển. Năm 1997, nghề nuôi hàu bắt đầu được triển khai tại Đầm Lập An và trở thành nguồn thu chính cho người dân địa phương. Với đặc tính sống bám của hàu, người nuôi đã thử nghiệm nhiều loại giá thể như cọc gỗ, cọc tre, trụ xi măng, đá và lồng treo. Ban đầu, người dân dùng cọc gỗ nhưng sau đó chuyển sang lốp xe cũ do cọc gỗ dễ hỏng và tốn kém. Từ một hộ nuôi hàu với vài chục cọc gỗ năm 1997, đến năm 2001 đã có 103 hộ với hơn 56.000 cọc gỗ. Đến năm 2016, số hộ nuôi hàu đã lên tới 224 và 243 hộ vào năm 2019, với sản lượng hàng năm đạt 400-500 tấn. Mỗi hộ thu nhập từ 30-100 triệu đồng/năm, biến Đầm Lập An thành vựa hàu lớn nhất của vịnh Lăng Cô.
Tại Đầm Lập An, có 5 loài hàu được nuôi trồng, bao gồm hàu cửa sông (Crassotrea rivularis), hàu sữa Thái Bình Dương (Crassotrea gigas), hàu mỏ vịt (Crassotrea sp1.), hàu ốc (Crassotrea sp2.) và hàu đá (Saccostrea cucullata). Trong đó, hàu cửa sông là loài phổ biến nhất. Mùa vụ nuôi thường kéo dài từ 9 đến 11 tháng (từ tháng 3 đến tháng 12 hoặc đến tháng 1 năm sau). Giá bán của hàu dao động từ 3.000 đồng/kg đến 40.000 đồng/kg, tùy thuộc vào loại và chất lượng.
Ngoài nghề nuôi hàu, cư dân quanh Đầm Lập An còn tham gia vào các hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản khác như cá lồng bè, vẹm xanh, và sử dụng các phương pháp khai thác như lưới bén, lừ xếp, rớ giàn, đáy... Năm 2003, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản trong đầm đạt 127 tấn, trong đó tôm chiếm 80 tấn, cá mú 7 tấn, vẹm xanh 18 tấn, hàu 13 tấn, và ốc hương 2 tấn.
Ngoài các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, Đầm Lập An còn nổi tiếng với nghề nung vôi hàu, cung cấp khoảng 100 tấn vôi hàu cho các khu vực từ Quảng Bình đến Bình Thuận và Tây Nguyên. Theo số liệu năm 2011, thu nhập trung bình của một chủ lò nung vôi hàu dao động từ 400 nghìn đến 4 triệu đồng/ngày, trong khi công nhân có thu nhập từ 100 đến 200 nghìn đồng/ngày. Tuy nhiên, nghề này đã chính thức ngừng hoạt động vào năm 2013.
Du lịch
Đầm Lập An là một điểm đến hấp dẫn cho du khách tại Thừa Thiên Huế. Nằm trong khu quy hoạch tổng thể phát triển của khu du lịch Lăng Cô – Cảnh Dương đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 của tỉnh, Đầm Lập An thuộc Phân khu du lịch Đầm Lập An (Phân khu A), có diện tích khoảng 70 ha. Đây là trung tâm dịch vụ du lịch chính của khu du lịch Lăng Cô – Cảnh Dương. Quy hoạch khu vực này ưu tiên phát triển các dịch vụ du lịch sinh thái, vui chơi giải trí và ẩm thực dựa trên lợi thế mặt nước của đầm.
Vấn đề môi sinh và xã hội
Sự chuyển đổi từ mô hình nuôi hàu bằng giá thể gỗ sang lốp xe cũ tại Đầm Lập An đã tạo ra nhiều vấn đề về cảnh quan và môi trường. Theo nghiên cứu của Viện Tài nguyên Môi trường và Công nghệ sinh học (Đại học Huế), việc sử dụng lốp xe cao su đã qua sử dụng lâu ngày trong nước gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng, làm tăng khí độc và độ đục của nước, dẫn đến suy thoái thủy vực. Mặc dù có lo ngại rằng hàu nuôi bằng lốp xe có thể gây ung thư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thừa Thiên Huế khẳng định chất lượng hàu tại Đầm Lập An vẫn đảm bảo an toàn thực phẩm. Theo quy hoạch, diện tích nuôi hàu sẽ giảm còn 100 ha và chuyển sang mô hình nuôi bè tre âm mặt nước. Tuy nhiên, việc thực hiện còn chậm do nhiều nguyên nhân. Hoạt động nung vôi hàu, từng là nguồn sống chính của người dân, đã gây ô nhiễm môi trường và tiêu diệt nhiều loài sinh vật. Mặc dù bị cấm từ năm 2005, tình trạng này chỉ chấm dứt vào năm 2013. Ngoài ra, sự xuất hiện của nhiều công trình bê tông và ô nhiễm từ rác thải du lịch cũng đang đe dọa môi trường sống của các loài thủy sinh, đồng thời làm giảm khả năng trao đổi nước giữa đầm và biển, ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội và hệ sinh thái.
Theo nghiên cứu của Phân Viện Hải dương học tại Hải Phòng, từ năm 1995 đến 2004, diện tích cỏ biển tại Đầm Lập An đã giảm 50% trong 10 năm, từ 250 ha xuống còn 120 ha. Hệ thực vật ngập mặn quanh đầm, từng là hệ sinh thái phong phú, hiện cũng đang suy giảm nghiêm trọng do các hoạt động kinh tế và xã hội của con người. Nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Dũng cho biết, tổng diện tích thực vật ngập mặn mất đi từ năm 1975 đến nay đã lên đến hơn 65 ha.
Một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2020 bởi nhóm các nhà khoa học từ Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế đã chỉ ra rằng các loài địch hại đang ảnh hưởng tiêu cực đến nghề nuôi hàu tại Đầm Lập An, dẫn đến giảm năng suất và chất lượng hàu. Các địch hại này được chia thành 4 nhóm, bao gồm 2 loài thuộc họ Vẹm, sun (Balanus sp.), giun nhiều tơ (Polydora sp.), và một số loài ăn thịt như tôm sú, cua xanh, cá dìa. Chúng gây hại bằng cách kí sinh bên trong hoặc bên ngoài vỏ hàu, chiếm giữ giá thể và phá vỡ vỏ hàu để ăn thịt.
Ngoài các vấn đề về môi trường, Đầm Lập An còn đối mặt với nhiều vấn đề xã hội, đặc biệt là việc lấn đất để xây dựng công trình và dựng nhà ở trái phép. Sau khi Chính phủ phê duyệt quy hoạch khu du lịch Lăng Cô – Cảnh Dương, các tuyến đường đông và tây Đầm Lập An được sửa chữa và xây dựng vào năm 2019. Tuy nhiên, đến cuối năm 2020 và đầu năm 2021, các tuyến đường này đã xuống cấp nghiêm trọng và hư hỏng nặng do bão số 13, mặc dù cơn bão không trực tiếp đổ bộ vào Thừa Thiên Huế.
- Lăng Cô
- Vịnh Chân Mây
Chú thích
Ghi chú
Tài liệu tham khảo
- Nguyễn, Hữu Cử; Trần, Đức Thạnh; Nguyễn, Thị Kim Anh; Đặng, Hoài Nhơn; Bùi, Văn Vượng; Nguyễn, Ngọc Anh (2008). “Đặc điểm môi trường địa chất của đầm Lăng Cô và hướng phát triển bền vững”. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 13: 403–413.
- Phạm, Ngọc Dũng (2012). “Tác động của các yếu tố kinh tế-xã hội đối với thực vật ngập mặn tại đầm Lập An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế”. Tạp chí nghiên cứu và phát triển. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế. 2 (91): 72–82.
- Tôn, Thất Chất; Nguyễn, Tý; Hầu, Hàn Ny; Nguyễn, Duy Quỳnh Trâm; Nguyễn, Thị Thanh Thủy; Võ, Đức Nghĩa; Lê, Tấn Phát (2021). “Tình hình nuôi hàu tại Đầm Lập An, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế”. Tạp chí khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 130 (3A): 25–36. doi:10.26459/hueunijard.v130i3a.5871.
- Trần, Thị Liên; Lê, Văn Thăng; Hoàng, Ngọc Tường Vân (2011). Biến động chất lượng nước tại đầm Lập An trong giai đoạn 2005-2008. Hội nghị Khoa học và Công nghệ biển toàn quốc. Sinh thái, môi trường và quản lý biển. tr. 143–150.
- Nguyễn, Hữu Cử (2006). Nghiên cứu động thái môi trường đầm phá ven bờ miền Trung Việt Nam để lựa chọn phương án quản lý: Báo cáo tổng kết. 6527. Hải Phòng: Viện Tài nguyên và Môi trường biển.