
Triceratops | |
---|---|
Khoảng thời gian tồn tại: Phấn Trắng muộn (Maastricht), 68–66 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
↓ | |
Khung xương loài T. prorsus tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Los Angeles | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Reptilia |
nhánh: | Dinosauria |
Bộ: | †Ornithischia |
nhánh: | †Neornithischia |
nhánh: | †Marginocephalia |
Phân bộ: | †Ceratopsia |
Họ: | †Ceratopsidae |
Phân họ: | †Chasmosaurinae |
Tông: | †Triceratopsini |
Chi: | †Triceratops Marsh, 1889 |
Loài điển hình | |
†Triceratops horridus Marsh, 1889 | |
Các loài | |
| |
Các đồng nghĩa | |
Danh sách |
Khủng long ba sừng (tiếng Hy Lạp: 'mặt ba sừng') hay được gọi là khủng long ba sừng hay tam giác long (từ tiếng Trung Quốc, giản thể: 三角龍, phồn thể: 三觭龍) là một chi khủng long ăn cỏ thuộc họ Ceratopsidae, sống vào thời kỳ cuối kỷ Phấn Trắng (từ 70–65 mya) ở Bắc Mỹ ngày nay. Nó là một trong những chi khủng long phi chim cuối cùng được biết tới, và đã tuyệt chủng vào Sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen 66 triệu năm trước. Tên Khủng long ba sừng, nghĩa đen là 'mặt ba sừng', xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại τρί- (tri-) nghĩa là 'ba', κέρας (kéras) nghĩa là 'sừng', và ὤψ (ops) nghĩa là 'mặt'.
Có diềm xương lớn và ba sừng trên một cơ thể lớn bốn chân, tương tự như tê giác hiện đại, Khủng long ba sừng là một trong những khủng long nổi tiếng nhất và là Ceratopsidae được biết đến nhiều nhất. Nó sống chung môi trường và có thể là con mồi của khủng long bạo chúa, mặc dù không chắc chắn rằng cả hai có đánh nhau như trong tranh và phim ảnh.
Vị trí chính xác của chi Khủng long ba sừng trong họ Ceratopsidae bị tranh cãi. Hai loài, T. horridus và T. prorsus, được coi là hợp lệ mặc dù nhiều loài khác đã được đặt tên. Một nghiên cứu được công bố năm 2010 cho rằng Torosaurus có thể thể là Khủng long ba sừng khi trưởng thành. Quan điểm này ngay lập tức bị tranh cãi và nghiên cứu hóa thạch kỹ càng hơn được mong rằng sẽ giải quyết được tranh luận.
Chức năng của diềm và sừng đã lâu được tranh luận. Theo truyền thống, chúng được coi là vũ khí phòng thủ chống lại khủng long ăn thịt. Theo các lý thuyết gần đây hơn, chúng không có mạch máu, cho thấy chúng có thể được dùng để nhận dạng lẫn nhau, tán tỉnh, và thể hiện sự thống trị, giống như gạc và sừng của tuần lộc, dê núi và kiến vương hiện đại. Theo giả thuyết rằng nếu Torosaurus là dạng trưởng thành của Triceratops, có nghĩa là chúng sẽ phát triển một lỗ trên diềm cổ, chúng dùng để phô trương hơn là để tự vệ.
Mô tả

Cá thể Triceratops được ước tính đạt chiều dài khoảng 7,9 đến 9,0 mét, chiều cao từ 2,9 đến 3,0 mét, nặng từ 6,1 đến 12,0 tấn. Chúng là một trong những động vật trên cạn có hộp sọ lớn nhất. Hộp sọ lớn nhất được biết đến ước tính dài 2,5 mét nếu hoàn chỉnh và có thể chiếm tới 1/3 chiều dài con vật. Một mẫu vật thuộc loài T. horridus tên Kelsey có chiều dài 7,3 mét với hộp sọ dài 1,98 mét, cao khoảng 2,3 mét, và được ước tính bởi Viện Black Hills có cân nặng gần 6 tấn. Một Triceratops dài 8 mét đã được ước tính bởi Gregory S. Paul có khối lượng tới 9,3 tấn. Nó có một sừng đơn nằm ngay trên lỗ mũi, và một cặp sừng dài khoảng 1 mét, nằm phía trên mắt. Sau hộp sọ có một diềm xương ngắn.
Lớp da Triceratops bất thường so với các khủng long khác. Dấu vết da của một mẫu vật chưa miêu tả cho thấy da của chúng có những cấu trúc giống lông cứng, gần giống với chi Ceratopsia nguyên thủy Psittacosaurus.
Phân loại

Triceratops là chi Ceratopsidae phổ biến nhất, chủ yếu là các loài khủng long có sừng ở Bắc Mỹ. Vị trí chính xác của Triceratops trong họ Ceratopsidae đã gây tranh cãi qua nhiều năm. Ý kiến khác nhau chủ yếu là do sự kết hợp giữa diềm ngắn (giống như Centrosaurinae) và sừng trán dài (giống như Chasmosaurinae). Trong một quan điểm sơ bộ về các loài khủng long có sừng, RS Lull đưa ra giả thuyết về hai dòng dõi, một từ Monoclonius và Centrosaurus dẫn đến Triceratops, dòng kia với Ceratops và Torosaurus, biến Triceratops thành một Centrosaurine như hiểu ngày nay. Các nghiên cứu sau này hỗ trợ quan điểm này, xác định nhóm đầu tiên có diềm ngắn là Centrosaurinae (bao gồm Triceratops) và nhóm thứ hai có diềm dài là Chasmosaurinae.
Năm 1949, CM Sternberg đặt câu hỏi và đề xuất rằng Triceratops có mối quan hệ chặt chẽ hơn với Arrhinoceratops và Chasmosaurus dựa trên các đặc điểm của hộp sọ và sừng, khiến Triceratops trở thành một loài Ceratopsine (Chasmosaurine). Quan điểm của ông lớn phần bị bỏ qua sau này với John Ostrom và sau đó là David Norman. Cả hai nhà khoa học đều đưa Triceratops vào nhóm Centrosaurinae.

Những phát hiện và phân tích tiếp theo tiếp tục hỗ trợ quan điểm của Sternberg về vị trí của Triceratops, với Lehman xác định cả hai phân loài vào năm 1990 và xác định Triceratops là Ceratopsine (Chasmosaurine), dựa trên một số đặc điểm hình thái. Thực tế này phù hợp với phân họ Ceratopsine, ngoại trừ diềm ngắn. Nghiên cứu chi tiết hơn của Peter Dodson, bao gồm phân tích trong những năm 1990 và nghiên cứu vào năm 1993 sử dụng RFTRA (phân tích kháng thể theta-rho), một kỹ thuật đo lường hình thái tương đồng về hình dạng hộp sọ, đã củng cố vị trí của Triceratops trong phân họ Ceratopsine.

Cây phát sinh chủng loài dưới đây theo Longrich (2014), người đã đặt tên cho một loài Pentaceratops mới và bao gồm gần như tất cả các loài Chasmosaurine:
Chasmosaurinae |
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||

Trải qua nhiều năm kể từ khi phát hiện, nguồn gốc tiến hóa của Triceratops vẫn còn mơ hồ. Năm 1922, chi Protoceratops mới được phát hiện và được coi là tổ tiên của nó bởi Henry Fairfield Osborn, nhưng chỉ sau nhiều thập kỷ, các phát hiện mới đã được đưa ra ánh sáng. Gần đây, các nhà khoa học đã thành công trong việc phát hiện ra một số tiền thân của Triceratops. Zuniceratops, một trong những loài Ceratopsian đầu tiên có sừng trán, được mô tả vào cuối những năm 1990 và Yinlong, chi đầu tiên được biết đến là một Ceratopsian ở kỷ Jura, vào năm 2005.
Những khám phá mới này đóng vai trò quan trọng trong việc minh họa nguồn gốc của những con khủng long sừng nói chung, cho thấy rằng tổ tiên của chúng có nguồn gốc từ châu Á trong kỷ Jura và sự xuất hiện của các chi Ceratopsian hoàn thiện, với sừng trán vào đầu kỷ Phấn trắng ở Bắc Mỹ. Khi Triceratops ngày càng được xác định là thành viên của phân họ Ceratopsinae diềm dài, có thể có tổ tiên giống với Chasmosaurus đã phát triển mạnh khoảng 5 triệu năm trước đó.
Trong cây phát sinh chủng loài, chi Triceratops đã được sử dụng như một điểm tham chiếu trong định nghĩa của loài khủng long. Khủng long đã được chỉ định là tất cả các hậu duệ của tổ tiên chung gần nhất với Triceratops và Neornithes (tức là chim hiện đại). Hơn nữa, tất cả các loài khủng long không phải chim, Ornithischia, đều được chỉ định là loài khủng long có tổ tiên chung gần hơn với Triceratops so với các loài chim hiện đại.
- Torosaurus
- Ceratopsidae
- Danh sách khủng long
Liên kết ngoài
(2 parts, 21 phút)
- Part 2
- Triceratops Trưng bày Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Cleveland 2013-09-30 tại Máy chủ lưu trữ Wayback
- LiveScience: Sự thật về Triceratops tại LiveScience.com
- Clash of the Dinosaurs: Những người bảo vệ - Mối đe dọa từ Triceratops, Kênh Discovery (video)
- Triceratops, AnimalPlanet
- Đăng trên Danh sách gửi thư Khủng long về tư thế của Triceratops Lưu trữ 2007-10-13 tại Máy chủ lưu trữ Wayback
- Trưng bày Smithsonian Lưu trữ 2003-02-02 tại Máy chủ lưu trữ Wayback
- Triceratops tại Internet Archive
- Triceratops trong Thư mục Khủng long
- Triceratops Lưu trữ 2009-02-26 tại Máy chủ lưu trữ Wayback (tóm tắt ngắn gọn và hình minh họa màu sắc đẹp)
- Triceratops Dành cho Trẻ em (một tờ thông tin về Triceratops kèm các hoạt động dành cho trẻ em)
- Triceratops Lưu trữ 2018-08-19 tại Máy chủ lưu trữ Wayback, Khủng long BBC

