1. Rừng rậm nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh tại Việt Nam
Rừng rậm nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh phủ rộng khắp Việt Nam, đặc trưng bởi vị trí trong vành đai nhiệt đới, thường nằm ở độ cao dưới 700 m ở miền Bắc và dưới 1000 m ở miền Nam. Nơi đây có nhiệt độ trung bình hàng năm 20 - 25°C, nhiệt độ tháng lạnh nhất 15 - 20°C, lượng mưa hàng năm từ 1.200 - 3.000 mm, mùa mưa ẩm và mùa khô rõ rệt với mùa khô kéo dài 3 tháng và độ ẩm trung bình khoảng 85%. Đất rừng thường là đất ferralit đỏ vàng, phát triển trên nhiều loại đá mẹ khác nhau và có cấu trúc đất sâu, không có đá ong chặt. Rừng có cấu trúc 3 - 5 tầng, thực vật chủ yếu là cây nhiệt đới với lá nhẵn bóng và hình thức sinh trưởng nhịp điệu.
Rừng rậm nhiệt đới của Việt Nam phân bố chủ yếu ở vùng đồi núi với khí hậu nóng ẩm và lượng mưa lớn, có cấu trúc nhiều tầng tán và đa dạng chủng loại. Đây là kiểu rừng thường xanh, gồm các cây xanh quanh năm, nằm trong vành đai nhiệt đới với độ cao dưới 700 m ở miền Bắc và dưới 1000 m ở miền Nam. Nơi đây có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20 - 25°C, nhiệt độ tháng lạnh nhất từ 15 - 20°C, lượng mưa hàng năm 1.200 - 3.000 mm, mùa mưa ẩm và mùa khô rõ rệt với mùa khô kéo dài 3 tháng và độ ẩm trung bình khoảng 85%. Đất rừng có quá trình ferralit mạnh với đất đỏ vàng và cấu trúc đất sâu. Rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới phân bố ở các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Yên Bái, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Ninh Bình, Hòa Bình, Bắc Trung Bộ, Đà Nẵng, Bình Định, Tây Nguyên. Rừng có cấu trúc 3 - 5 tầng với thực vật chủ yếu là cây nhiệt đới, không có chồi ngủ qua đông và lá nhẵn bóng.
2. Phân bố của rừng rậm nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh tại Việt Nam
Tại miền Bắc Việt Nam, thực vật chịu ảnh hưởng từ khu vực Nam Trung Hoa. Rừng thường xanh ẩm xuất hiện ở vùng thấp, dưới độ cao 700 m.
2.1. Khu vực Tây Bắc
Trước đây, thảm thực vật rừng ở khu vực này rất đa dạng, nhưng hiện tại rừng nguyên sinh gần như đã biến mất.
- Thượng nguồn sông Đà và sông Mã: rừng còn lại chủ yếu là rừng thứ sinh, với trữ lượng thấp.
- Tại Sơn La và Mộc Châu, kiểu rừng này xuất hiện ở những khu vực đồi núi thấp, trên lớp đất mỏng nhưng giàu mùn và thoát nước tốt. Trữ lượng trung bình từ 100-200 m³/ha. Một số loài cây tiêu biểu ở đây gồm:
- Thung lũng sông Đà có trữ lượng từ 80-150 m³/ha, với các loài chủ yếu là Bời lời, Kháo, Dẻ và một số loài khác như Nghiến, Ô rô, Trai, Sếu.
- Khu vực núi Hoàng Liên Sơn:
- Tại vùng đồi và núi thấp đến trung bình, cao từ 500-1500m.
- Tại vùng núi cao trên 1500m, rừng phát triển trên nền đất chua, mỏng, với sương mù quanh năm, nhiệt độ thấp, và lượng mưa từ 180-320 cm/năm. Rừng ở đây bao gồm các cây gỗ lùn hơn, giống như những thực vật ở cao độ thấp,.....
- Tại Hòa Bình và Ninh Bình, ở độ cao dưới 700m, rừng nguyên sinh đã không còn, chỉ còn lại rừng hậu lập.
2.2. Khu vực Đông Bắc
Rừng ở khu vực này, với độ cao dưới 700m, bao gồm các loài chủ yếu như Sao, Táu muối, và Trám trắng.
- Thung lũng sông Hồng và sông Chảy:
- Tại vùng thấp dưới 700m, rừng nguyên sinh gần như đã biến mất, thay vào đó là rừng hậu lập đang ở giai đoạn phục hồi hoặc thoái hóa. Khi rừng phục hồi ổn định, các loài cây chủ yếu bao gồm Sao, Táu muối, Trám trắng, Lim và nhiều loài cây gỗ khác, với độ tàn che từ 60-70% và chiều cao tán rừng từ 25-30m.
- Ở vùng đồi núi cao trên 700m, thành phần loài thay đổi theo độ cao.
- Từ 900m trở lên, xuất hiện các loài á nhiệt đới như Bà ra, Phong, Sơn trà Eriobotrya, và Giổi Michelia.
- Trên 1000m, có thêm các loài hạt trần, đặc biệt là Pơ mu.
- Núi trung bình Hoàng Su Phì: rừng kín, đa dạng loài, lá rộng và thường xanh, với hai đai rừng phân chia ở khoảng 1500m.
- Thượng nguồn sông Lô và sông Gấm: rừng ở các vùng thấp và trung bình, từ 500-1500m.
- Trung du Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, và Bắc Giang: rừng vùng thấp dưới 700m đã bị khai thác nhiều, chỉ còn lại rừng hậu lập với các loài cây nhỏ.
- Đồi núi thấp ở Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh: rừng ở độ cao dưới 700m với nhiều loài cây gỗ quý giá.
2.3. Khu vực Bắc Trung Bộ
Rừng tại khu vực này bao gồm vùng thấp dưới 700m và đồi núi thấp đến trung bình từ 500-1500m, nổi bật với sự đa dạng sinh học cao. Có nhiều dây leo thân gỗ và thực vật phụ sinh.
- Tại các khu vực dưới 300m, cây Lim xanh (Erythrophoeum fordii) chiếm ưu thế từ đèo Ngang trở ra, trong khi ở phía trong đèo Ngang, cây Gõ và Huỷnh (Sindora cochinchinensis và Heritiera javanica) nổi bật.
- Ở độ cao từ 300-700m, các loài cây như Sến và Táu (Madhuca pasquieri và Hopea mollissima) chiếm ưu thế, trong khi ở vùng núi, loài Dẻ (Castanopsis spp) là chủ yếu.
- Khu vực núi Tây Thanh và Nghệ-Tĩnh: Đã phát hiện ít nhất 2500 loài thực vật bậc cao có mạch trong khu vực này.
- Ở các đai cao hơn, rừng thường xanh trên núi thấp bắt đầu xuất hiện. Dưới 1500m, các loài ưu thế gồm Dẻ (Fagaceae), Long não (Lauraceae), và Sim (Myrtaceae), trong khi một số loài thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae) vẫn hiện diện. Trữ lượng đạt 200 m3/ha. Trên 1500m, cây họ Dầu không còn, thay vào đó là các loài hạt trần như Sa-mu dầu (Cunninghamia konishii), Pơ-mu, và Kim giao.
- Gò đồi Bắc Trung Bộ: Rừng vùng thấp dưới 700m, mặc dù không còn nhiều trạng thái nguyên thủy. Tuy nhiên, một số khu rừng tự nhiên như Rừng Lim-Sến ở Thanh Hóa và rừng Gõ-Huỷnh ở Vĩnh Linh, Quảng Trị vẫn còn khá tốt.
- Đồng bằng và cát ven biển Bắc Trung Bộ: Là rừng ở khu vực thấp dưới 700m, chủ yếu bao gồm các khu rừng tự nhiên gọi là Rú, nơi có các loài cây gỗ thấp, kích thước trung bình, phân cành thấp và bộ lá cứng.
- Khối núi Tây Bình Trị Thiên: Rừng ở vùng thấp dưới 700m thể hiện đặc trưng của hệ thực vật Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa. Đây cũng là khu vực giao thoa của ba luồng thực vật lớn, mang nhiều yếu tố của các hệ thực vật này.
- Rừng ở cao độ từ 700-1500m, nằm trên đồi núi và các dãy núi Trường Sơn. Rừng tại khu vực này ít bị tác động và giữ được nhiều đặc điểm nguyên thủy, chủ yếu tập trung quanh Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hoá, Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông, một khu nhỏ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên) và khu giáp ranh Thừa Thiên với Quảng Nam.
2.4. Khu vực Nam Trung Bộ
Rừng thường xanh ở vùng đồi núi thấp và trung bình trên 700m, có mặt tại các khu vực như Núi Tây Quảng Nam và Quảng Ngãi, với nhiều trạng thái khác nhau, bao gồm cả trạng thái nguyên thủy. Nghiên cứu cho thấy (theo Trung tâm Dữ liệu Thực vật VN) khu vực Bà Nà có ít nhất 731 loài thực vật bậc cao thuộc 130 họ của 5 ngành thực vật: Lycopodiophyta, Equisetophyta, Polypodiophyta, Pinophyta và Magnoliophyta. Hai họ có nhiều loài nhất là Euphorbiaceae và Rutaceae. Đây là khu vực rừng ít bị ảnh hưởng bởi hoạt động của con người.
2.5. Khu vực Tây Nguyên
Khu vực này sở hữu nhiều rừng tự nhiên nhất và tỷ lệ rừng giàu cao nhất cả nước. Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm ở vùng thấp dưới 1000m, đồi núi trung bình từ 700-2000m và núi cao trên 2000m, với sự đa dạng sinh học phong phú, tập trung chủ yếu ở các Vườn quốc gia như Chư Yang Sin, Bidoup, núi Bà, Kon Ka Kinh, Chư Mom Ray, Ngọc Linh... và đặc biệt là nơi tập trung của hệ sinh thái rừng khộp đặc thù.
- Khối núi Ngọc Linh, với độ cao trên 1000m; ở dưới 1000m, rừng thường bị ảnh hưởng nhiều.
- Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm tại đồi núi thấp và trung bình từ 700-1500m gồm các loài cây gỗ thuộc họ Dẻ, Long não với các loài ưu thế như Dẻ đá, Sồi, Re. Độ che phủ lớn (70-80%), trữ lượng cao (180-250m3/ha), và tăng trưởng nhanh (12-14m3/ha.năm).
- Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm ở núi cao trên 1500m ít bị tác động, vẫn giữ được nhiều đặc điểm nguyên thủy, với tăng trưởng trung bình (7-8m3/ha.năm).
- Ở độ cao từ 1800-2000m trở lên, rừng ưu thế với các loài Đỗ quyên (Rhododendron spp.), Pơ mu, Hồi núi, Trúc lùn. Trữ lượng thấp (70-90m3/ha).
- Núi thấp Sa Thầy: Rừng ở vùng đồi và núi thấp, nằm trong khoảng cao từ 700 đến 2000m thuộc dãy núi Sa Thầy.
- Cao nguyên basalt Pleiku-Kon Hà Nừng: Rừng phân bố tại đồi và núi thấp từ 700-2000m, chủ yếu tập trung ở cao nguyên Kon Hà Nừng với sự phong phú về loài.
- Tại độ cao từ 500-1000m, các loài ưu thế thuộc họ Ngọc lan (Magnoliaceae) như Giổi xanh....
- Từ độ cao 800-2000m, hệ thực vật chuyển tiếp giữa các họ từ vùng thấp sang các họ thích nghi cao hơn như Long não, Dẻ, và giảm dần các loài thuộc họ Xoan, Dầu. Trữ lượng rừng loại này đạt 160-250 m3/ha.
- Trên 2000m, thành phần chủ yếu là các loài chịu ẩm, lạnh như Sồi, Đỗ quyên, Trà…cây thường lùn và cong, với trữ lượng dưới 80 m3/ha.
- Núi thấp An Khê: Rừng ở vùng thấp dưới 1000m và đồi, núi thấp đến trung bình từ 700-2000m, nơi các loài ưu thế như Vên vên, Re, Gội…
- Khối núi M’Drak: Rừng tại đồi, núi thấp và trung bình từ 700-2000m, tập trung chủ yếu ở độ cao trên 700m.
- Ở vùng thấp dưới 1000m, các loài ưu thế thuộc họ Xoan, Thầu dầu, Long não, Cam, Hoa hồng, Đậu, Dẻ, Dâu tằm, Bàng (Combretaceae) và một số loài rụng lá.
- Trên 1000m, các loài ưu thế là Sồi lá tre (Quercus bambusaefolia), Re,....
- Khu vực miền Nam: Thực vật bị ảnh hưởng bởi hệ Mã lai-Nam Dương, với các loài cây gỗ lớn thuộc họ Dầu chiếm ưu thế ở các tầng cao, chủ yếu là cây gỗ thường xanh.
- Cao nguyên Dak Nông-Dak Min: Rừng ở vùng thấp dưới 1000m và đồi núi từ 700-2000m hiện còn rất ít, phân bố rải rác từ dãy núi Chư Dju đến dãy Vọng Phu, với các loài như Kiền kiền, Sao, Giổi, Dầu… Trữ lượng: 120-150m3/ha.
- Khối núi Chư Yang Sin và cao nguyên Đà Lạt:
- Dưới 800m là kiểu rừng kín thường xanh vùng thấp với các loài ưu thế như Sao đen, Dầu rái, và Dầu đỏ (D. turbinatus).
- Trên 800m là kiểu rừng kín thường xanh phân bố rộng rãi trong khu vực, với các loài chủ yếu thuộc họ Dẻ và họ Long não.
- Cao nguyên Di Linh-Bảo Lộc: Rừng lá rộng thường xanh ở độ cao trên 700m, với các loài chủ yếu thuộc họ Dẻ, Thầu dầu, Long não, Đậu…
- Khu Đông Nam Bộ:
Rừng kín, hỗn loài, lá rộng thường xanh ở vùng thấp dưới 1000m với các loài ưu thế thuộc họ Dầu như Dầu rái, Dầu song nàng, Sao, Kiền kiền, Vên vên. Trữ lượng và năng suất gỗ rất cao, trước đây ở Đồng Xoài-Mã Đà-Sông Bé, trữ lượng trung bình đạt 250 m³/ha, có nơi lên đến 400 m³/ha. Tăng trưởng hàng năm từ 5-7 m³/ha.
- Núi thấp Bình Phước-Đồng Nai, Gò đồi Đông Nam Bộ, Đồng bằng ĐNB: Rừng thường xanh mưa ẩm dưới 1000m với các loài Dầu vùng thấp như Dầu rái, Dầu song nàng, Sao đen, Kiền kiền…
- Côn Đảo: Rừng thường xanh mưa ẩm dưới 1000m với các loài đặc trưng của đảo như Dầu Côn Sơn.
- Khu Tây Nam Bộ
Các hải đảo Tây Nam Bộ như Phú Quốc: Rừng vùng thấp với các loài ưu thế thuộc họ Dầu như Sao đen, Dầu song nàng, Dầu mít…
- Các thành phần tự nhiên khác
3.1. Địa hình
- Sự xâm thực mạnh mẽ ở miền đồi núi.
- Tại các sườn dốc, địa hình bị xé nát, đất bị xói mòn và rửa trôi nghiêm trọng, nhiều nơi chỉ còn lại sỏi đá; đồng thời, hiện tượng đất trượt và đá lở cũng xảy ra.
- Ở khu vực núi đá vôi, hình thành địa hình cacxtơ với các hang động và suối cạn.
- Các thềm phù sa cổ bị chia cắt thành các đồi thấp và thung lũng rộng.
- Bồi tụ nhanh chóng ở đồng bằng hạ lưu sông.
Tại rìa phía nam đồng bằng châu thổ sông Hồng và phía tây nam đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm, diện tích lấn ra biển từ vài chục đến gần trăm mét. * Nguyên nhân:
- Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ẩm và gió mùa đặc trưng.
- Địa hình tại đây có độ dốc lớn.
- Nham thạch dễ bị phong hóa.
3.2. Hệ thống sông ngòi
- Mạng lưới sông ngòi rất dày đặc:
- Trên toàn quốc có 2360 con sông dài hơn 10km. Dọc theo bờ biển, cứ 20km lại có một cửa sông xuất hiện.
- Mặc dù nước ta có nhiều sông, nhưng phần lớn là sông nhỏ.
- Sông ngòi phong phú, chứa nhiều nước và phù sa.
- Tổng lượng nước hàng năm đạt 839 tỷ m³, trong đó 60% lượng nước đến từ bên ngoài lãnh thổ.
- Tổng lượng phù sa hàng năm do sông ngòi cung cấp là 200 triệu tấn. - Chế độ nước theo mùa:
- Mùa lũ xảy ra trong mùa mưa, còn mùa cạn trùng với mùa khô. Chế độ mưa không ổn định dẫn đến dòng chảy cũng không ổn định.
* Nguyên nhân:
- Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ẩm và gió mùa, với lượng mưa lớn.
- Địa hình bị chia cắt mạnh mẽ.
- Mưa diễn ra theo mùa.
3.3. Đất
- Đất feralit là loại đất chủ yếu ở Việt Nam.
- Quá trình hình thành đất feralit đặc trưng cho khí hậu nhiệt đới ẩm, với phong hóa mạnh mẽ dưới điều kiện nhiệt ẩm cao, tạo ra lớp đất dày. Mưa nhiều làm rửa trôi các ion dễ tan như Ca2+, Mg2+, K+, làm cho đất trở nên chua và tích tụ ôxi sắt (Fe2O3) cùng ôxit nhôm (Al2O3), tạo màu đỏ vàng đặc trưng cho đất feralit (Fe-Al).
- Với điều kiện nhiệt ẩm cao, quá trình phong hóa diễn ra mạnh mẽ, mưa nhiều làm rửa trôi các bazơ dễ tan khiến đất trở nên chua, đồng thời tạo sự tích tụ ôxit sắt và ôxit nhôm, khiến đất có màu đỏ vàng. Đất feralit là loại đất chủ yếu ở các vùng đồi núi của nước ta.
* Nguyên nhân:
- Khí hậu nước ta thuộc loại nhiệt đới ẩm gió mùa.
- Quá trình feralit xảy ra mạnh mẽ.
- Nhiệt độ và độ ẩm đều cao.
3.4. Sinh vật
- Hệ sinh thái rừng nguyên sinh chủ yếu là rừng rậm nhiệt đới ẩm với lá rộng thường xanh, hiện chỉ còn rất ít.
- Hiện nay, phổ biến là các loại lá rừng thứ sinh với các dạng hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa khác nhau như rừng gió mùa thường xanh, rừng gió mùa nửa rụng lá, rừng thưa khô rụng lá đến xavan và bụi gai hạn nhiệt đới.
- Các thành phần sinh vật chủ yếu là loài nhiệt đới như họ đậu, dâu tằm, dầu… và động vật bao gồm các loài chim và thú nhiệt đới.
- Hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm gió mùa trên đất feralit là đặc trưng của thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa ở nước ta, với sự hiện diện của các thành phần cận nhiệt đới và ôn đới ở vùng núi cao.
* Nguyên nhân:
- Khí hậu nước ta thuộc loại nhiệt đới ẩm gió mùa với sự phân hóa rõ rệt.
- Nhiệt độ cao và độ ẩm lớn.
Chúng tôi hy vọng rằng bài viết này đã mang lại thông tin giá trị cho quý độc giả. Xin chân thành cảm ơn.