Константин Паустовский (Konstantin Paustovsky) | |
---|---|
Sinh | 31 tháng 5 năm 1892 Moskva, Nga |
Mất | 14 tháng 7 năm 1968 (74 tuổi) Moskva, Liên Xô |
Nghề nghiệp | Nhà văn |
Thể loại | Truyện ngắn, Tiểu thuyết lãng mạn |
Ảnh hưởng tới | |
Chữ ký |
Konstantin Georgiyevich Paustovsky
Thông tin cá nhân
Konstantin Paustovsky chào đời năm 1892 tại thành phố Moskva, thuộc Đế quốc Nga. Cha ông là một nhân viên đường sắt mang gốc Cossack Zaporizhia, còn mẹ ông đến từ một gia đình trí thức Ba Lan. Vì vậy, gia đình Paustovsky thông thạo cả ba ngôn ngữ: tiếng Nga, tiếng Ba Lan và tiếng Ukraina. Konstantin lớn lên tại Ukraina, học trung học ở Kiev và là bạn cùng lớp với Mikhail Bulgakov. Sau khi cha rời bỏ gia đình, ông phải làm gia sư để có tiền tiếp tục việc học.
Năm 1912, Paustovsky bắt đầu học Khoa Lịch sử Tự nhiên tại Đại học Kiev, nhưng đến năm 1914, ông chuyển sang Khoa Luật của Đại học Moskva. Thế chiến thứ nhất nổ ra, khiến ông phải dừng học và chuyển sang làm nhân viên đường sắt như cha mình. Năm 1915, Paustovsky lên đường đến mặt trận trên một tàu hỏa bệnh viện, nhưng sau khi hai người anh hy sinh trên chiến trường, ông trở về Moskva sống với mẹ một thời gian, sau đó lại lên đường tìm việc. Ông làm công nhân trong các nhà máy luyện kim tại Katerynoslav (nay là Dnipro, Ukraina) và Yuzivka (nay là Donetsk, Ukraina). Năm 1916, Paustovsky chuyển đến Taganrog bên bờ Biển Azov làm việc tại nhà máy hơi nước và thử sức với nghề đánh cá. Năm 1917, ông trở lại Moskva, làm nghề nhà báo và chứng kiến cuộc Cách mạng Tháng Mười.
Trong cuộc Nội chiến Nga, Paustovsky tham gia chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân. Sau đó, ông tiếp tục hành trình khắp Liên bang Xô Viết, từ Kiev, Odessa đến Sukhumi, Batumi, Yerevan, và cuối cùng là Baku. Ông trở về Moskva vào năm 1932, nơi ông làm việc với tư cách biên tập viên cho Hãng thông tấn Nga (GROWTH) trong vài năm trước khi trở thành nhà báo của tờ Pravda (Sự thật).
Quá trình sự nghiệp
Từ năm 1911 đến 1941
Paustovsky bắt đầu viết lách từ khi còn học trung học. Ban đầu, ông thử sáng tác thơ nhưng cuối cùng lại tập trung vào viết văn xuôi. Điều này xảy ra sau khi nhà văn Ivan Bunin, một tên tuổi lớn, gửi một bức thư khuyên nhủ Paustovsky, trong đó ông viết: 'Tôi tin rằng thế giới thực sự của cậu nằm trong những tác phẩm văn xuôi. Nếu cậu thực sự chuyên tâm vào lĩnh vực này, tôi chắc chắn cậu sẽ đạt được những thành tựu đáng kể'.
Những truyện ngắn đầu tay của Paustovsky như Na vode (Trên mặt nước) và Chetvero (Bộ tứ) được viết vào các năm 1911 và 1912. Các tác phẩm đầu tiên này chịu ảnh hưởng từ Alexander Grin và các nhà văn thuộc 'Trường phái Odessa' như Isaac Babel, Valentin Kataev và Yuri Olesha. Khi sống tại Taganrog, Paustovsky đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên mang tên Romantiki (Lãng mạn), được xuất bản năm 1935. Tác phẩm này kể về cuộc sống thời niên thiếu của tác giả, bao gồm những gì ông đã trải qua và cảm nhận, trong đó có nhân vật ông già Oscar, một họa sĩ phải đối mặt với áp lực từ những người muốn ông trở thành thương gia và vượt qua sự cô đơn để sáng tác nghệ thuật. Các tác phẩm sau đó của Paustovsky như Razgovor o ribe, Azovskoe podpolie và Port v trave được viết để miêu tả cuộc sống tại Taganrog. Trong Thế chiến thứ nhất, ông còn viết nhiều bản thảo về cảm xúc và suy nghĩ của mình ở tiền tuyến. Tác phẩm đầu tiên của ông được xuất bản vào năm 1925, mang tên Morskiye Nabroski (Phác thảo biển), nhưng chưa gây được tiếng vang. Sau đó là Minetoza (1927) và cuốn tiểu thuyết lãng mạn Blistaiushie Oblaka (Những đám mây tỏa sáng) vào năm 1929.
Vào thập niên 1930, Paustovsky đã thực hiện nhiều chuyến thăm các công trường xây dựng và viết nhiều tác phẩm ca ngợi công cuộc công nghiệp hóa tại Liên Xô. Những tác phẩm nổi bật trong thời gian này bao gồm truyện vừa Kara-Bugaz (1932) và Kolkhida (1934). Kara-Bugaz được đặc biệt khen ngợi nhờ cốt truyện về cuộc phiêu lưu khám phá vịnh Kara-Bugaz huyền bí vào năm 1847. Paustovsky tiếp tục khám phá đề tài lịch sử trong tác phẩm Severnaya Povest (Câu chuyện phương Bắc) (1938). Cuối thập niên này, ông bắt đầu khai thác chủ đề thiên nhiên Nga trong các tác phẩm như Letniye Dni (Những ngày hè) (1937) và Meshcherskaya Storona (1939). Theo Paustovsky, thiên nhiên là một nguồn cảm hứng vô tận giúp con người thoát khỏi những lo âu hàng ngày và tìm lại sự cân bằng trong tâm hồn. Ý tưởng này của ông tương đồng với quan điểm của nhà văn Mikhail Prishvin, người từng nói: 'Nếu tôi không phải là Prishvin, tôi muốn viết như Paustovsky'.
1945 - 1968
Trong suốt Thế chiến thứ hai, Paustovsky là một phóng viên chiến trường tại mặt trận phía Nam. Vào năm 1943, ông viết kịch bản cho bộ phim 'Lermontov' (đạo diễn bởi A. Gendelshtein) dành cho Xưởng phim Gorky.
Từ năm 1948 đến 1955, Paustovsky đảm nhận vai trò giảng viên tại Trường viết văn Maxim Gorky. Năm 1955, ông cho ra đời tác phẩm có thể coi là đỉnh cao trong sự nghiệp của mình, tập truyện Bông hồng vàng (Золотая роза) ca ngợi phẩm chất lao động cao quý của nhà văn. Trong giai đoạn từ 1945 đến 1963, Paustovsky đã dành rất nhiều thời gian để viết bộ tự truyện Povest o Zhizni (Chuyện kể về cuộc đời), bao gồm 6 quyển. Ông cũng sáng tác một số vở kịch và truyện cổ tích, trong đó có Chiếc nhẫn sắt.
Từ giữa thập niên 1950, các tác phẩm của Paustovsky bắt đầu được quốc tế biết đến, và ông được mời thăm nhiều quốc gia châu Âu như Ý, Tiệp Khắc, Bulgari, và nhiều nơi khác. Năm 1965, ông được đề cử giải thưởng Nobel Văn học, nhưng giải thưởng cuối cùng đã thuộc về nhà văn Mikhail Sholokhov, tác giả của Sông Đông êm đềm. Bên cạnh đó, Paustovsky cũng được Nhà nước Liên Xô vinh danh bằng Huân chương Lênin vì những đóng góp to lớn cho nền văn học Xô viết.
Tại Việt Nam, các tác phẩm truyện ngắn của Paustovsky được xuất bản trong hai tập sách nổi bật: Bông hồng vàng và Bình minh mưa.
Bằng Việt, một nhà thơ và dịch giả nổi bật của Việt Nam, đã thực hiện nhiều bản dịch và viết nhiều tác phẩm về Paustovsky. Nổi bật nhất là bài thơ 'Nghĩ lại về Paustovsky', trong đó ông nhắc đến nhiều tiêu đề truyện ngắn của tác giả này.
Konstantin Paustovsky qua đời vào ngày 14 tháng 7 năm 1968 tại Moskva.
Câu nói nổi tiếng
Trong truyện ngắn Bụi quý, nằm trong tập Bông hồng vàng, Paustovsky đã thể hiện quan điểm của mình về vai trò của nhà văn. Đoạn văn này đã trở thành một trong những trích dẫn phổ biến khi bàn về sự nghiệp viết lách.
'Mỗi khoảnh khắc, từng câu nói ngẫu hứng, mỗi ánh mắt tình cờ chạm phải, những suy nghĩ sâu sắc hay vui đùa, cùng với mọi rung động âm thầm của trái tim, và cả những chiếc cánh mỏng manh của hoa hướng dương bay lơ lửng hay ngọn lửa sao phản chiếu trong vũng nước đêm - tất cả đều là những hạt bụi vàng nhỏ bé. Chúng ta, những nhà văn, đã thu thập và chắt chiu những hạt cát này trong suốt hàng chục năm, để từ đó tạo thành một hợp kim quý giá, từ đó chúng ta chế tác nên 'Bông Hồng Vàng' của mình - có thể là một câu chuyện, một tiểu thuyết hay một bài thơ. Bông hồng vàng của Samet! Đối với tôi, đó là hình ảnh của tương lai trong hoạt động sáng tạo của chúng ta. Thật kỳ lạ khi không ai chịu dành công sức nghiên cứu để xem những hạt bụi quý giá ấy đã tạo nên một nền văn học sinh động ra sao. Nhưng giống như bông hồng vàng của người thợ hót rác cũ, mục đích của sáng tác của chúng ta là để tô điểm cho vẻ đẹp của Trái Đất, để kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, niềm vui và tự do, và để tâm hồn và trí tuệ chiến thắng bóng tối, chiếu sáng như mặt trời không bao giờ tắt.'
Các tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt
- Cô gái làm ren, dịch bởi Từ Bích Hoàng, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh Niên, 1958.
- Bông hồng vàng, dịch bởi Vũ Thư Hiên, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa, 1961; tái bản 1982 dưới bút danh Kim Ân, (Золотая роза, 1955)
- Truyện ngắn Pauxtốpxki, Hà Nội, 1962
- Mưa trong bình minh, dịch bởi Vũ Minh Thiều, Sài Gòn: Gió Bốn Phương xuất bản, 1966 (tập truyện ngắn nhiều tác giả. Tên nguyên tác: Дождливый рассвет.)
- Chiếc nhẫn bằng thép, dịch bởi Nguyễn Thuỵ Ứng và Vũ Quỳnh, Hà Nội: Nhà xuất bản Kim Đồng, 1973 («Стальное кольцо»)
- Vịnh mõm đen, dịch bởi Nguyễn Hải Hà, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh Niên, 1978. Gồm hai truyện: 'Vịnh mõm đen' (Kara-Bugaz / Кара-Бугаз, 1932) và 'Kolkhida' (Колхида, 1933)
- Một mình với mùa thu, dịch và giới thiệu bởi Phan Hồng Giang, Hà Nội: Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1984 («Наедине с осенью»)
- Bình minh mưa, dịch bởi Kim Ân và Mộng Quỳnh, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, 1984 (Kim Ân là bút danh của Vũ Thư Hiên). (Tập truyện ngắn, tên nguyên tác: Дождливый рассвет.)
- Câu chuyện phương bắc, dịch bởi Mộng Quỳnh, Nhà xuất bản Hà Nội, 1987 (Северная повесть, 1938)
- Pauxtopxki Tự truyện, dịch bởi Tạ Hồng Trung, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 2002 (Повесть о жизни - Далёкие годы, 1946)
- Chuyện đời: Hồi ký. T.1 - Những năm tháng xa xưa, dịch bởi Phan Bạch Châu, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn (Повесть о жизни - Далёкие годы, 1946).
- Chuyện đời: Hồi ký. T.2 - Thời thanh niên sôi động, dịch bởi Phan Bạch Châu, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2011. (Повесть о жизни - Беспокойная юность, 1955)
- Chuyện đời: Hồi ký. T.3 - Bắt đầu một thế kỷ chưa từng có, dịch bởi Phan Bạch Châu, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012. (Повесть о жизни - Начало неведомого века, 1957)
- Chuyện đời: Hồi ký. T.4 - Thời kỳ của những hy vọng lớn lao, dịch bởi Phan Bạch Châu, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012. (Повесть о жизни - Время больших ожиданий, 1959)
- Chuyện đời: Hồi ký. T.5 - Thần tốc xuống phương nam, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn (Повесть о жизни - Бросок на юг, 1960)
- Chuyện đời: Hồi ký. T.6 - Tập sách của những chuyến ngao du, dịch bởi Phan Bạch Châu, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012. (Повесть о жизни - Книга скитаний, 1963)