Kubanochoerus gigas, hay còn được biết đến là lợn kỳ lân vì chiếc sừng độc đáo nổi bật trên trán.
Hóa thạch là công cụ quý giá để khám phá về thế giới đã tuyệt chủng. Hóa thạch sớm nhất của các loài động vật trong họ Suidae xuất hiện từ kỷ Oligocene, khoảng 23-33 triệu năm trước. Họ Suidae bao gồm lợn lòi, lợn trang trại và babirusa. Có khoảng 16-18 loài đã tuyệt chủng trong họ Suidae. Và loài 'lợn kỳ lân' hiện đã tuyệt chủng, có trọng lượng nặng gần 500 kg, với một chiếc sừng trên đầu nổi bật.
Kubanochoerus là một chi lợn chân dài đã tuyệt chủng từ đầu đến giữa thời kỳ Miocen. Kubanochoerus gigas, loài lớn nhất trong chi này, có chiều cao khoảng 3,3 feet và ước tính nặng khoảng 1.100 pound. Hộp sọ của Kubanochoerus có một phần xương lớn nhô ra từ đỉnh đầu, cùng với hai chiếc sừng nhỏ hơn nhô ra khỏi đầu, ngay trên lông mày.
Có niềm tin rằng chỉ có con đực mới sở hữu chiếc sừng giống kỳ lân mọc trên đầu. Con vật này có đôi chân dài và thân hình cường tráng, giống nhiều loài lợn hiện đại.
Hóa thạch đầu tiên của Kubanochoreus được phát hiện tại Trung Quốc vào năm 1928. Ban đầu, chúng được xếp vào chi Listriodon. Kubanochoerus được mô tả lần đầu tiên vào năm 1955. Việc phân loại các hóa thạch trong chi Kubanochoerus đã gây ra nhiều tranh cãi.
Trung Quốc, Châu Phi và các quốc gia Á-Âu là điểm phát hiện của hóa thạch cho loài này. Một hóa thạch hộp sọ lớn, nhô ra như sừng, đó là một trong những khám phá quan trọng, giúp xác định Kubanochoerus gigas. Các hóa thạch của răng và hàm dưới khác cũng góp phần xác định các loài động vật trong chi.
Cuộc tranh luận đã diễn ra về việc liệu hóa thạch có nên được xếp vào các chi Libycochorues, Megalochorues hay Kubanochoerus hay không, kéo dài suốt nhiều năm.
Kubanochoerus gigas, loài lớn nhất trong chi, các thành viên khác như Kubanochoerus lantianensis, Kubanochoerus mancharensis, Kubanochoerus minheensis, Kubanochoerus parvus và Kubanochoerus robustus. Việc phát hiện hóa thạch được bảo quản tốt hơn và nghiên cứu sâu rộng hơn trong tương lai sẽ giúp làm sáng tỏ những nhầm lẫn về loài lợn khổng lồ cổ đại này.
Các loài kubaanochoerus lớn nhất có khả năng sống trong môi trường sống mở, với kích thước đã bảo vệ chúng. Các loài nhỏ hơn có thể đã sinh sống ở khu vực rừng rậm có mái che. Rừng thưa, thảo nguyên hoặc kết hợp giữa hai loại môi trường là nơi loài này có thể sinh sống. Kubanochoerus đã tồn tại trên khắp Âu-Á và Châu Phi từ giai đoạn Burdigalian đến Tortonian trong thời kỳ Miocen.
Lợn hiện đại ăn mọi thứ chúng gặp, và có lẽ lợn kỳ lân cũng vậy. Thịt có thể là một phần của chế độ ăn hàng ngày của chúng. Có thể chúng đã săn thịt động vật nhỏ hơn hoặc ăn thịt xác chết. Điều đặc biệt là mõm của lợn kỳ lân không đào đất tốt như lợn hiện đại do mũi của chúng không cao bằng.
Mối đe dọa mà kubaanochoerus có thể đối mặt trong tự nhiên có thể bao gồm nimravids hoặc mèo răng kiếm, gấu chó, đều có khả năng săn bắt loài này nếu chúng bắt gặp.
Loài lợn này cũng trang bị răng nanh để tự vệ, giống như loài lợn hiện đại. Trong thế Miocen, Kubanochoerus có thể đã sử dụng răng nanh và sừng lớn để cạnh tranh thức ăn với các loài lợn khác.
Kubanochoerus gigas sống khoảng 15-7 triệu năm trước trong thế Miocen từ giữa đến cuối, phân bố rộng trên một phần lớn lục địa Á-Âu, từ Georgia đến Trung Quốc.
Đây là một trong những loài lợn lớn nhất từng tồn tại, vượt trội hơn một chút so với loài lợn rừng khổng lồ hiện đại với chiều cao tính đến vai khoảng 1,2m. Tính đặc biệt nhất là chiếc sừng lớn nổi bật ở giữa trán và một cặp nhỏ phía trên mắt hướng về phía trước trên trán.
Tuy nhiên, trong những khám phá khảo cổ, đã có mẫu vật thiếu chiếc sừng lớn, vì vậy một số nhà nghiên cứu coi đó là đặc điểm dị hình giới tính chỉ có ở con đực. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu điều này có thực sự đúng hay không, vì ít nhất một hộp sọ 'không sừng' đã được báo cáo với những chiếc ngà lớn hơn, đặc biệt liên quan đến lợn đực - do đó, Kubanochoerus có thể có hoặc không có sừng, điều này có thể là những loài riêng biệt!
Nguồn: Grunge; Phys.org; USGS