Kỳ lân biển | |
---|---|
So sánh kích cỡ với một người trung bình | |
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Cetacea |
Họ (familia) | Monodontidae |
Chi (genus) | Monodon Linnaeus, 1758 |
Loài (species) | M. monoceros |
Danh pháp hai phần | |
Monodon monoceros Linnaeus, 1758 | |
Khu vực phân bố kỳ lân biển (xanh lam) |
Kỳ lân đại dương (Monodon monoceros) (tiếng Anh: Narwhal) là một loài động vật có vú cỡ trung bình sống ở biển, thuộc phân bộ Cá voi có răng (Odontoceti), hiện diện quanh năm ở vùng Bắc Cực. Cùng với cá voi trắng, chúng là hai loài duy nhất còn tồn tại trong Họ Kỳ lân đại dương (Monodontidae). Đặc điểm nổi bật của kỳ lân đại dương là con đực sở hữu một chiếc ngà dài, thẳng và xoắn ở hàm trên bên trái, từ đó tên gọi 'kỳ lân' xuất phát.
Chúng chủ yếu sống ở vùng biển Bắc Băng Dương quanh Canada và đảo Greenland, tuy nhiên rất hiếm khi thấy dưới vĩ tuyến 65° Bắc.
Kỳ lân đại dương là loài động vật ăn thịt đặc trưng của Bắc Cực, vào mùa đông chúng săn mồi ở độ sâu khoảng 1.500 m dưới lớp băng dày. Trong hơn một ngàn năm qua, người Eskimo ở bắc Canada và Greenland vẫn săn bắt chúng để lấy thịt và ngà.
Phân loại và di truyền học
Kỳ lân biển có mối quan hệ gần gũi với cá voi trắng. Cùng với cá voi trắng, chúng là hai loài duy nhất còn lại thuộc họ Monodontidae (thỉnh thoảng gọi là họ Cá voi trắng). Họ Monodontidae có kích thước trung bình (dài từ 3 đến 5 mét), với trán hình dưa hấu, mõm ngắn và không có vây lưng thực sự.
Họ Monodontidae (họ Cá voi trắng) kết hợp với họ Delphinidae (họ cá heo đại dương) và họ Phocoenidae (họ cá heo chuột) tạo thành siêu họ Delphinoidea.
Các nghiên cứu di truyền cho thấy họ cá heo chuột có mối liên hệ gần gũi hơn với họ cá voi trắng so với họ cá heo đại dương, và hai họ này đã hình thành một nhánh riêng biệt tách ra từ siêu họ Delphinoidea trong vòng 11 triệu năm qua.
Đặc điểm sinh học
Kỳ lân biển đực trưởng thành có thể đạt trọng lượng lên đến 1.600 kg (00 pound), trong khi con cái nặng khoảng 1.000 kg (2.200 pound). Da của chúng có sự pha trộn giữa các đốm đen và trắng. Thường thì kỳ lân biển mới sinh có màu tối và sáng dần theo thời gian.
Đặc điểm nổi bật nhất của kỳ lân biển đực là chiếc ngà dài khoảng 2 đến 3 mét phát triển từ răng nanh hàm trên bên trái, trông giống như sừng của kỳ lân trong truyền thuyết.
Chiếc ngà của kỳ lân biển có thể dài tới 3 mét, một kích thước khá lớn so với chiều dài cơ thể chỉ khoảng 4 đến 5 mét, và có thể nặng đến 10 kg.
Trung bình trong 500 con đực, có một con có hai ngà, vì răng nanh bên phải cũng phát triển thành ngà.
Kỳ lân biển cái cũng có ngà, nhưng ngắn và thẳng hơn so với con đực. Mặc dù cũng có thể có một cặp ngà, nhưng trường hợp này rất hiếm, hiện tại chỉ ghi nhận một con cái có hai ngà.
Một giả thuyết phổ biến cho rằng chiếc ngà là một dấu hiệu hấp dẫn về mặt giới tính, tương tự như bờm của sư tử đực hay bộ lông đuôi của con công trống.
Ngà có thể giúp xác định cấp bậc xã hội, duy trì hệ thống phân cấp, hoặc hỗ trợ các con đực non phát triển kỹ năng cần thiết cho vai trò tình dục. Hiếm khi thấy kỳ lân biển dùng ngà để chiến đấu, thực hiện hành vi hung hăng, hoặc phá vỡ băng trong môi trường Bắc Cực của chúng.
Dù bề ngoài cứng cáp, ngà của kỳ lân biển có độ nhạy cảm đáng kinh ngạc. Với khoảng 10 triệu mối liên kết thần kinh từ trung tâm ngà đến bề mặt, chiếc ngà như một cảm biến nhạy bén, có thể phát hiện những thay đổi nhỏ về nhiệt độ và áp suất nước. Nhờ vậy, kỳ lân biển có thể nhận biết độ mặn của nước và sự dao động quanh con mồi, giúp chúng sống sót trong môi trường băng giá của Bắc Cực.
Hành vi và chế độ ăn uống
Kỳ lân biển có chế độ ăn uống khá hạn chế. Chế độ ăn của chúng chủ yếu bao gồm cá bơn Greenland, cá tuyết vùng cực, cá tuyết Bắc Cực, tôm và mực ống Gonatus. Thỉnh thoảng, dạ dày của chúng cũng chứa cá wolffish, cá capelin, trứng cá skate, và đôi khi cả đá (nuốt phải khi tìm kiếm thức ăn ở đáy biển).
Điểm nổi bật nhất trong sự thích nghi của kỳ lân biển là khả năng lặn sâu. Đây là loài động vật có vú lặn sâu nhất, ghi nhận lặn ít nhất 800 mét (2.625 feet) tới 15 lần mỗi ngày, với nhiều lần lặn đạt 1.500 mét (4.921 feet). Mỗi lần lặn kéo dài khoảng 25 phút, bao gồm cả thời gian ở đáy và di chuyển lên xuống bề mặt (các ghi nhận này chủ yếu diễn ra vào mùa đông).
Kỳ lân biển thường tập trung thành đàn từ 5 đến 10 cá thể. Vào mùa hè, một số đàn hợp lại thành nhóm lớn hơn. Đôi khi, kỳ lân biển đực cọ xát ngà của chúng vào nhau trong hoạt động gọi là 'đấu ngà' (tusking). Hành vi này được cho là giúp duy trì hệ thống phân cấp xã hội.
Số lượng và phân bố
Kỳ lân biển chủ yếu phân bố ở Đại Tây Dương và Bắc Băng Dương. Chúng thường được quan sát ở phía bắc vịnh Hudson, eo biển Hudson, vịnh Baffin; ngoài khơi bờ biển phía đông Greenland; và trong dải phía đông từ cực bắc đảo Greenland vòng qua đông Nga (170° Đông).
Hiện nay, ước tính có khoảng 75.000 cá thể kỳ lân biển. Phần lớn chúng tập trung ở các vịnh hẹp tại phía bắc Canada và tây Greenland.
Kỳ lân biển là loài di cư. Vào mùa hè, chúng di chuyển gần bờ biển hơn, thường tụ tập thành nhóm từ 10-100 con. Khi mùa đông đến và băng đóng lại, chúng rời xa bờ và sống trong vùng băng dày đặc, tìm kiếm thức ăn trong các rãnh và hố băng nhỏ. Vào mùa xuân, các rãnh trở thành kênh và kỳ lân biển trở lại các vịnh và bờ biển cũ.
Săn bắt và bảo tồn
Kẻ thù của kỳ lân biển, ngoài con người, còn có gấu bắc cực và cá voi sát thủ (Orca). Người Inuit (Eskimo) được phép săn các loài cá voi hợp pháp để phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Hầu như mọi phần của kỳ lân biển từ thịt, da, mỡ đến các cơ quan đều được sử dụng. Đối với người Inuit trên đảo Greenland, lớp mỡ và da của kỳ lân biển cung cấp lượng vitamin C quý giá, một loại vitamin hiếm có ở vùng đất khắc nghiệt này. Nếu không có chúng, có lẽ người Inuit khó có thể tồn tại. Người dân Greenland được phép săn kỳ lân biển, nhưng không được phép săn con cái và phải mang xác đi sau khi giết. Greenland cấm xuất khẩu ngà kỳ lân biển, và Liên minh châu Âu cũng cấm nhập khẩu loại hàng quý hiếm này. Dù vậy, nhiều người vẫn hy vọng bắn được kỳ lân biển có ngà để bán với giá trên 1.000 USD. Ngoài ra, các thợ săn cũng mong chờ thu được phần 'muktuk' nằm trên lớp mỡ và da, được coi là món cao lương mỹ vị truyền thống.
Trong thời Trung cổ, ngà kỳ lân biển có giá trị tương đương 10 lần khối lượng vàng của nó. Nữ hoàng Elizabeth I từng nhận một ngà kỳ lân biển được chạm khắc đá quý trị giá 10.000 bảng Anh (tương đương khoảng 1,5 đến 2,7 triệu bảng Anh năm 2007), đủ để mua một tòa lâu đài. Ngày nay, một đoạn ngà dài 30 cm có thể có giá lên tới 125 USD. Gần đây, trung bình mỗi năm có khoảng 500 con kỳ lân biển bị săn bắn ở vùng Bắc Cực Canada.
Kỳ lân biển được coi là một trong những động vật có vú biển Bắc Cực dễ bị ảnh hưởng nhất bởi biến đổi khí hậu. Khi được đưa vào môi trường nuôi nhốt, chúng thường gặp phải vấn đề về sức khỏe và dễ chết vì nguyên nhân tự nhiên.
Trong văn hóa
Một số người châu Âu thời Trung Cổ đã tin rằng ngà của kỳ lân biển chính là sừng của kỳ lân trong truyền thuyết.
Sừng kỳ lân, theo truyền thuyết, được cho là có khả năng ma thuật, chẳng hạn như khả năng chữa trị ngộ độc và bệnh trầm cảm. Người Viking và các thương nhân phương Bắc đã lợi dụng điều này để bán ngà với giá trị gấp nhiều lần vàng so với trọng lượng của nó. Ngà còn được chế tạo thành cốc mà người ta tin có thể làm mất tác dụng của bất kỳ chất độc nào.
Herman Melville đã đề cập đến kỳ lân biển trong tác phẩm Moby Dick của ông, cho rằng một chiếc ngà kỳ lân biển đã được treo tại lâu đài Windsor trong một thời gian dài sau khi Sir Martin Frobisher trao tặng cho Nữ hoàng Elizabeth. Kỳ lân biển cũng xuất hiện trong tác phẩm Hai vạn dặm dưới đáy biển của Jules Verne.
Những loài hiện hữu của Bộ Cá voi | |||
---|---|---|---|
Giới: Animalia · Ngành: Chordata · Lớp: Mammalia · Cận lớp: Eutheria · Siêu bộ: Laurasiatheria · (không phân hạng) Cetartiodactyla · (không phân hạng) Whippomorpha | |||
| |||
| |||
|
- M. P. Heide-Jorgensen. 'Narwhal', trong Encyclopedia of Marine Mammals, biên tập bởi Perrin, Wursig và Thewissen. ISBN 0-12-551340-2
- Heide-Jørgensen, M. P. và K. L. Laidre (2006). Whales of Greenland's Winter: Beluga, Narwhal, and Bowhead Whale. Illiniusiorfik Undervisningsmiddelforlag, Nuuk, Greenland. ISBN 978-87-7975-299-3. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2011.
Liên kết ngoài
- Thông tin về sinh học và sinh thái của kỳ lân biển, NOAA
- Câu hỏi thường gặp về kỳ lân biển
- Hình ảnh và thông tin về cá kỳ lân biển
- Thông tin tổng quan về kỳ lân biển Lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2002 tại Wayback Machine
- Thông tin kỳ lân biển Lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2005 tại Wayback Machine
- Hình ảnh từ National Geographic
- Thông tin về kỳ lân biển trên trang Trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia Hoa Kỳ (NCBI)
- Kỳ lân biển 180485 trên Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS)
- Kỳ lân biển trên Encyclopedia of Life