Lá khôi | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Asterids |
Bộ (ordo)
| Ericales |
Họ (familia) | Primulaceae |
Chi (genus) | Ardisia |
Loài (species) | A. silvestris |
Danh pháp hai phần | |
Ardisia silvestris Pit., 1930 |
Lá khôi, có tên khoa học là Ardisia silvestris, còn được biết đến với các tên gọi như Khôi nhung, Khôi tía; là một loài thực vật có hoa thuộc họ Anh thảo, cây nhỏ, thẳng đứng, cao khoảng 2m, thân rỗng xốp, ít nhánh. Lá mọc thành chùm ở đầu ngọn, mọc so le, hình dáng phiến lá nguyên, mép có răng cưa nhỏ và mịn, dài 15–40 cm, rộng 6–10 cm, mặt trên màu lục sẫm mịn như nhung, mặt dưới màu tím đỏ, gân lá nổi rõ hình mạng lưới. Hoa mọc thành chùm, dài 10-15 cm, có màu trắng pha hồng tím, gồm 5 lá đài và 3 cánh hoa. Quả mọng, khi chín có màu đỏ. Loài cây này được Charles-Joseph Marie Pitard (1873-1927) mô tả khoa học lần đầu và công bố trong tác phẩm Flore Générale de l'Indo-Chine năm 1930.
Phân bố
Cây thường mọc rải rác ở các tỉnh miền núi phía bắc và trung bộ như: Lào Cai (Sapa), Lạng Sơn (Hữu Lũng), Quảng Ninh, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Nội (Ba Vì), Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hóa (Lang Chánh, Ngọc Lạc, Thạch Thành), Nghệ An (Quỳ Châu), Quảng Trị, Thừa Thiên Huế (Phú Lộc), Quảng Nam, Đà Nẵng.
Sinh học
Mùa hoa từ tháng 5 đến tháng 7, mùa quả chín từ tháng 10 đến tháng 12 năm sau. Cây tái sinh bằng hạt. Cây thích bóng dưới rừng rậm ẩm ướt, phát triển tốt trên đất có nhiều mùn trong rừng nguyên sinh, ở độ cao từ 400 đến 1200m.
Công dụng
Thành phần chính là Tanin có tác dụng trung hòa axit dạ dày, giảm đau và làm lành vết loét, kích thích da non và làm lành vết thương nên được sử dụng để điều trị viêm loét dạ dày tá tràng.
Bài thuốc
Thường được dùng kết hợp với bồ công anh, khổ sâm, cam thảo để giúp cải thiện thể trạng khi cảm thấy sút kém, bụng đầy trướng, kém ăn, mệt mỏi, đau vùng thượng vị, đau lan ra hai bên sườn và sau lưng, đặc biệt là cho những người bị viêm loét dạ dày tá tràng. Bài thuốc này, khi kết hợp 4 vị thuốc trên, đã được Hội Đông y Thanh Hóa và các Viện Đông y sử dụng rộng rãi trong điều trị đau dạ dày với hiệu quả cao.
Nhân dân ở vùng ngược miền Lang Chánh, Ngọc Lạc tỉnh Thanh Hoá thường sử dụng lá khôi để chế biến, sắc uống để điều trị đau bụng. Hội Đông y Thanh Hoá đã kết hợp sử dụng lá khôi (80g), lá bồ công anh (40g) và lá khổ sâm (12g) để sắc uống điều trị đau dạ dày; có thể thêm lá cam thảo dây (20g). Nhiều địa phương khác ở tỉnh Nghệ An cũng dùng lá khôi để điều trị đau dạ dày. Lá khôi còn được sử dụng kết hợp với lá vối, lá hoè để nấu nước tắm cho trẻ bị sại lở, hoặc nghiền với lá Vối trộn với dầu vừng để đắp nhọt cho trẻ. Người Dao sử dụng rễ cây khôi thái nhỏ, phơi khô rồi ngâm trong rượu để uống cho bổ máu, và sử dụng sắc uống để điều trị kiết lỵ ra máu, đau yết hầu và đau cơ nhục.
Tình trạng bảo tồn và biện pháp bảo vệ
Tại Việt Nam, lá khôi được đánh giá là Sẽ nguy cấp. Mức độ đe dọa: Bậc V. Mặc dù phân bố rộng rãi nhưng số lượng không nhiều do khả năng tái sinh từ hạt kém, lại bị khai thác quá mức dẫn đến mất mát nguồn hạt tái sinh. Ngoài ra, những vùng có cây con mọc lại cũng bị khai thác mạnh, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng do môi trường sống không còn thích hợp.
Vì vậy, biện pháp bảo vệ được khuyến khích là chỉ khai thác ở mức độ hợp lý và bảo tồn lại những cây con chưa đạt tuổi thu hái. Cấm khai thác loài này trong vườn quốc gia Cúc Phương và nên tổ chức trồng lại để đảm bảo nguồn nguyên liệu làm thuốc.