Lá dong | |
---|---|
Lá dong | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
Phân giới (subregnum) | Tracheobionta |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Monocots |
(không phân hạng) | Commelinids |
Bộ (ordo) | Zingiberales |
Họ (familia)
| Marantaceae |
Chi (genus) | Stachyphrynium |
Loài (species) | S. placentarium |
Danh pháp hai phần | |
Stachyphrynium placentarium (Lour.) Clausager & Borchs., 2003 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Danh sách |
Cây lá lá dong, dong gói bánh, dong rừng hoặc dong lá (danh pháp hai phần: Stachyphrynium placentarium) là một loài thực vật trong họ Dong (Marantaceae).
Loài này đã được João de Loureiro miêu tả khoa học lần đầu vào năm 1790 dưới danh pháp Phyllodes placentaria. Năm 2003, Karen Clausager & Finn Borchsenius đã chuyển nó sang chi Stachyphrynium.
Đặc tính
Cây thân thảo cao 1–2 m. Các lá gốc 1 (hoặc 2); bao lá 3–50 cm. Lá mọc trên thân cây 1; bao lá 3–5 cm; cuống lá 7,5–60 cm, thể gối 2–7 cm; phiến lá hình từ trứng tới elip, 25-55 × (5,5-) 8–20 cm, dạng dai như da nhưng mỏng, không lông, gốc lá thuôn tròn với tâm nhọn, đỉnh lá nhọn.
Cụm hoa không có cuống, bao gồm 4 hoặc 5 hoặc nhiều hơn các bông con, hình cầu, đường kính từ 3 đến 8 cm; các lá bắc nhiều, dài và thuôn, khoảng 2-2,5 cm, đỉnh có mũi nhọn thon và cứng dạng gai. Mỗi lá bắc có 2 hoa, màu trắng hoặc trắng nhạt sang vàng. Các lá đài thẳng, khoảng 5 mm. Ống tràng hoa dài khoảng 8 mm; thùy lá hình elip, kích thước khoảng 5 x 2 mm. Các nhụy lép bên ngoài hình trứng ngược, dài khoảng 5 mm. Bầu nhụy nhẵn nhụi hoặc có lông măng ở đỉnh. Quả dài, khoảng 1,2 cm; vỏ quả mỏng. Hạt hình dạng elip, khoảng 1 cm; áo hạt có màu đỏ. Ra hoa từ tháng 5 đến tháng 8, có thể sớm hơn từ tháng 2, kết quả từ tháng 8 đến tháng 11.
Phân bố
Sống trong các vùng ẩm ướt có bóng râm như rừng, thường xuất hiện trong các thung lũng ven suối; có thể sinh sống từ độ cao 0 đến 1.500 m. Phân bố tại Ấn Độ, Bhutan, Indonesia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam, đông nam Tây Tạng, nam Vân Nam) và Việt Nam.
Sử dụng
Lá dong thường được sử dụng để bọc bánh chưng, bánh giày.
Bánh tét, bánh nếp, bánh tẻ cũng được bọc bằng lá dong sau khi luộc, mang mùi thơm đặc biệt và dễ chịu.
Lá dong cũng có thể dùng để ủ giấm bằng cách ngâm lá trong rượu hoặc dung dịch đường 30%.
Theo kinh nghiệm của người dân, lá dong được sử dụng như là thuốc giải độc, chữa say rượu và cắn rắn.