Lạc đà Huacaya hay còn gọi là Huacaya Alpaca là một trong hai giống lạc mã nổi tiếng ở Nam Mỹ, chuyên cung cấp len Pacos. Loài này còn được biết đến với tên gọi lạc đà cừu và khác biệt so với giống lạc đà Suri. Chúng sinh sống ở cao nguyên Altiplano thuộc dãy Andes, nơi có độ cao lên tới 4.000 mét so với mực nước biển và phân bố ở bốn quốc gia Nam Mỹ. Đây là giống lạc đà phổ biến nhất trong các loài lạc đà cừu, được nuôi chủ yếu để thu hoạch len và thịt. Len của chúng có chất lượng cao và rất được ưa chuộng.
Các đặc điểm
Cả hai giống lạc đà Huacaya và Suri đều dễ phân biệt nhờ vào đặc điểm ngoại hình của chúng. Mặc dù không có sự khác biệt lớn về trọng lượng, cả con non khi sinh ra (7,5–8 kg) và con trưởng thành đều có kích thước khá tương đồng, với con đực nặng khoảng 70 kg và con cái nặng khoảng 65 kg. Cả hai đều thuộc cùng một loài và cơ bản giống nhau, nhưng lạc đà Huacaya có thân hình tròn trịa và đồ sộ hơn, trông như những con cừu với bộ lông xù.
Lông của Huacaya mọc vuông góc với cơ thể, có kết cấu dày, mềm mại và xù lên. Lông của chúng có dạng lọn như bọt biển và ngắn hơn, màu sáng hơn so với lạc đà Suri, đồng thời không có lớp mỡ lông như lạc đà Corriedale. Lạc đà Suri có lông dài và treo xuống, với kết cấu tơ lụa, bóng bẩy hơn và dài hơn so với Huacaya. Cả hai giống đều có nhiều màu sắc khác nhau, tổng cộng lên tới 22 màu sắc khác nhau, tạo nên sự đa dạng trong sắc lông.
Tính cách
Chúng sống thành đàn, thường gồm một con đực, nhiều con cái và con non của chúng. Đàn có thể dùng chân trước để tấn công kẻ thù nhỏ, như đá hay đạp. Chúng thường sử dụng chung một nhà cầu công cộng và không thích bị quan sát khi đi vệ sinh. Thường thì con đực gọn gàng hơn con cái, chúng đứng xếp hàng và đi vệ sinh đồng loạt. Khi một con cái đến nhà cầu, cả đàn đều làm theo. Lạc đà cừu không thích bị cầm nắm, nhưng một số có thể chấp nhận sự vỗ về nhẹ nhàng, mặc dù chúng không thích bị chạm vào chân, bắp chân, bụng hoặc mông.
Chúng phát ra nhiều loại tiếng kêu khác nhau. Khi đối diện với mối nguy hiểm, chúng sử dụng âm thanh lớn và sắc như tiếng lừa để cảnh báo cả đàn về sự xuất hiện của kẻ lạ. Âm thanh này thường rất cao và đầy sợ hãi. Để thể hiện sự thân thiện hoặc phục tùng, chúng kêu bằng tiếng 'cluck' hoặc 'click' từ lưỡi hoặc mũi. Những âm thanh này không chỉ mang lại sự thoải mái cho chúng mà còn thông báo với đồng loại về sự hiện diện và sự hài lòng của chúng. Tiếng kêu của chúng còn có nhiều ý nghĩa khác, như khi các con đực chiến đấu, chúng phát ra những âm thanh cao để đe dọa đối phương.
Chúng thường phun nước miếng, không phải tất cả đều làm vậy nhưng khả năng này có ở hầu hết chúng. Cuống họng của chúng thường chứa không khí và một ít nước miếng, vì là loài nhai lại, chúng hay nhai lại thức ăn như cỏ xanh và có thể phun chất nhầy này vào đối phương. Mặc dù chúng hiếm khi phun vào nhau, đôi khi chúng vẫn phun nước miếng vào con người. Đối với chúng, việc phun nước miếng có thể là dấu hiệu của 'hôi miệng' do axit dạ dày và thức ăn khi đi qua miệng.
Chăm sóc
Chúng cần ít thức ăn hơn so với các loài khác ở cùng lứa tuổi. Chúng chủ yếu ăn rơm rạ hoặc cỏ, nhưng cũng có thể ăn thêm một số loại cây khác. Đôi khi, chúng còn cố gắng nhai những vật như chai nhựa. Chủ nuôi thường xuyên thay đổi địa điểm ăn cỏ để đảm bảo cỏ có thời gian phục hồi. Mặc dù chúng có thể ăn cỏ tự nhiên, các chủ trang trại vẫn bổ sung cỏ có thêm protein. Để cung cấp selenium (Se), các chủ trang trại cho chúng ăn một lượng nhỏ mỗi ngày. Chúng cần khoảng 1-2% trọng lượng cơ thể mỗi ngày, tức là khoảng 27 kg cỏ mỗi tháng cho mỗi con.
Để xây dựng chế độ ăn hợp lý cho chúng, cần phải phân tích cẩn thận lượng nước và cỏ để xác định lượng vitamin và khoáng chất cần thiết. Có hai cách để cung cấp bột khoáng: trộn vào cỏ để chúng ăn tự do hoặc theo tỉ lệ cụ thể. Dạ dày ba túi của chúng giúp tiêu hóa hiệu quả. Phân của chúng không chứa hạt, nên không cần ủ trước khi sử dụng cho cây trồng. Răng và móng của chúng cần được cắt định kỳ mỗi 6-12 tháng. Do có răng thấp ở hàm trên, chúng không thể kéo cỏ ra khỏi đất. Việc thay đổi khu vực ăn uống là cần thiết vì chúng thường quay lại những chỗ cũ để ăn cỏ.
Sinh sản
Các con lạc đà cái rất dễ sinh sản và có thể mang thai sau một lần giao phối, mặc dù đôi khi có một số trường hợp khó thụ thai. Thụ tinh nhân tạo là thách thức nhưng đã đạt được nhiều thành công. Các con đực có thể giao phối lần đầu tiên từ 1-3 tuổi, trong khi con cái trưởng thành về thể chất và tinh thần khoảng 12-24 tháng. Không nên cho con cái thụ thai trước khi trưởng thành để tránh nguy cơ nhiễm trùng tử cung. Vì tuổi trưởng thành của lạc đà cái khá đa dạng, người nuôi nên đợi ít nhất 18 tháng trước khi cho giao phối.
Thời gian mang thai của chúng kéo dài từ 15 đến 345 ngày, và thường thì chỉ sinh ra một con non. Sinh đôi rất hiếm, chỉ khoảng 1/1000 ca. Sau khi sinh, con cái có thể giao phối lại sau 2 tuần. Những con non có thể dứt sữa khi được 6 tháng tuổi và nặng khoảng 28 kg dưới sự giám sát của người chăm sóc. Tuy nhiên, một số người nuôi thích để con mẹ tự quyết định thời điểm dứt sữa, tùy thuộc vào khối lượng và sự trưởng thành của con non. Chúng có thể sống đến 20 năm.
Tổng kết
Số lượng lạc đà Huacaya vượt xa so với tổng số của giống lạc đà Suri. Theo ước tính, có khoảng 2,88 triệu con, chiếm tới 96% tổng số loài. Tại Chile, toàn bộ lạc đà Alpaca là giống Huacaya, trong khi Bolivia ở biên giới phía Bắc có một số lượng đáng kể lạc đà Suri. Peru, nơi có phần lớn lạc đà Alpaca trên thế giới, ước tính có đến 93% số lượng lạc đà thuộc giống Huacaya theo FAO. Chúng sống thành đàn và kiếm ăn ở dãy Andes cao, trải dài từ phía nam Peru đến Ecuador và phía bắc Chile, ở độ cao từ 00m đến 5.000m. Với 3,7 triệu con trên toàn cầu, hơn 90% được coi là giống Huacaya, nhờ vào khả năng chịu đựng tốt trong điều kiện khắc nghiệt của cao nguyên.
Đặc sản
Lông của lạc đà giống như len và được sử dụng để tạo ra nhiều sản phẩm đan lát và dệt. Các sản phẩm này bao gồm áo len, áo khoác, nón, găng tay, khăn choàng và nhiều mặt hàng khác. Lông lạc đà là một loại tơ tự nhiên mềm mại và đẹp, tương tự như lông cừu nhưng ấm hơn, ít dầu và ít gây dị ứng hơn. Mặc dù không chứa dầu, lông này vẫn có thể thấm nước. Lông của chúng mềm mại và có chút sang trọng. Về mặt cấu trúc, lông alpaca tương tự như tóc, rất mềm, mịn và bóng. Quy trình chế biến, quay tơ, dệt vải và hoàn thiện tương tự như sản xuất lông cừu. Lông alpaca cũng có khả năng chống lửa và đáp ứng các tiêu chuẩn của Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Mỹ (US Consumer Product Safety Commission).
Lạc đà được cắt lông mỗi năm vào mùa xuân, với sản lượng thu được khoảng 5-10 pound (2,2-4,5 kg) từ mỗi con. Lông lạc đà có nhiều màu sắc tự nhiên tùy thuộc vào khu vực sinh sống của chúng, chẳng hạn như 52 màu ở Peru, 12 màu ở Úc và 16 màu ở Mỹ. Sản phẩm len từ lông lạc đà thường có mật độ từ 150-170 đề/mm². Ở độ dày 25 mm, lông lạc đà mỏng hơn 1,5 mm so với giống Suri và có màu trắng hơn đáng kể. Len của giống Suri nổi bật với đặc tính nhẹ và bền. Một số sản phẩm có thể được làm từ lông Huacaya bao gồm: ponchos, khăn choàng, áo ghi lê, áo len và khăn trải giường. Trong ngành công nghiệp dệt, khi nhắc đến 'Alpaca', người ta thường hiểu là 'Alpaca của Peru' và nói đến lông của loài này.
Thịt alpaca từng được người Nam Mỹ coi là loại thịt giàu dinh dưỡng. Trong khi các con Pacos, giống lạc mã Nam Mỹ, chủ yếu được nuôi để lấy lông, thịt của chúng hoàn toàn có thể ăn được và rất giàu protein. Trọng lượng thịt lạc đà thường đạt khoảng 50% trọng lượng cơ thể và trung bình khoảng 23 kg thịt sống. Lạc đà Huacaya được cho là sản xuất nhiều thịt hơn so với giống Suri. Thịt của chúng có hàm lượng protein cao và tỷ lệ chất béo thấp, với hàm lượng protein trung bình đạt khoảng 23%.
- Manna, V. La; Terza, A. La; Dharaneedharan, S.; Ghezzi, S.; Saravanaperumal, S. Arumugam; Apaza, N.; Huanca, T.; Bozzi, R.; Renieri, C. (ngày 1 tháng 1 năm 2011). Pérez-Cabal, Ma Ángeles; Gutiérrez, Juan Pablo; Cervantes, Isabel; Alcalde, Ma Jesús, eds. Nghiên cứu microsatellite về khoảng cách di truyền giữa các kiểu hình Suri và Huacaya trong alpaca Peru (Vicugna pacos). Nhà xuất bản Wageningen Academic Publishers. p. 1. doi:10.3920/978-90-8686-727-1_20. ISBN 978-90-8686-727-1.
- Fernández-Baca, Sr. Saúl (2005). TÌNH TRẠNG HIỆN TẠI CỦA CÁC LOÀI LẠC ĐÀ NAM MỸ Ở PERU (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc. p. 13. Dự án TCP khu vực TCP/RLA/2914.
- Quispe, E.c.; Rodríguez, T.c.; Iñiguez, L.r.; Mueller, J.p. (01-10-2009). 'Sản xuất sợi alpaca, llama, vicuña và guanaco ở Nam Mỹ'. Thông tin Tài nguyên Di truyền Động vật. 45: 1–14. doi:10.1017/S1014233909990277. ISSN 2078-6344.
- Atav, Rıza; Türkmen, Fatih (01-08-2015). 'Khảo sát đặc tính nhuộm của sợi alpaca (Huacaya và Suri) so với len' (PDF). Tạp chí Nghiên cứu Dệt may. 85 (13): 1331–1339. doi:10.1177/0040517514563727. ISSN 0040-5175.
- Maccagno, Luis. (1912) Giống alpaca Suri. Anales de la Dirección de Fomento de Lima (Peru), Số 7-12.
- Romero, Elías C. (1927) Llamas, alpacas, vicuñas và guanacos. Imp. F. Gurfinkel. 203 trang.
- Salvá, Bettit K.; Zumalacárregui, José M.; Figueira, Ana C.; Osorio, María T.; Mateo, Javier (01-08-2009). 'Thành phần dinh dưỡng và chất lượng công nghệ của thịt từ alpacas nuôi ở Peru'. Khoa học Thịt. 82 (4): 450–455. doi:10.1016/j.meatsci.2009.02.015.
- Huarachi, David. Hướng dẫn nuôi lạc đà Nam Mỹ. Nhà xuất bản Kollu Huma. 54 trang.