
Lâm Bình
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Lâm Bình | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đông Bắc Bộ | ||
Tỉnh | Tuyên Quang | ||
Huyện lỵ | thị trấn Lăng Can | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 9 xã | ||
Thành lập | 2011 | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 917,55 km² | ||
Dân số (2020) | |||
Tổng cộng | 51.421 người | ||
Mật độ | 56 người/km² | ||
Dân tộc | Tày, Dao, Kinh, H'Mông, Pà Thẻn | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 071 | ||
Biển số xe | 22-L1 | ||
Website | lambinh | ||
Lâm Bình là một huyện thuộc tỉnh Tuyên Quang ở Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Lâm Bình tọa lạc ở phía bắc tỉnh Tuyên Quang, có đặc điểm địa lý như sau:
- Phía đông tiếp giáp với huyện Na Hang
- Phía tây tiếp giáp với huyện Vị Xuyên và huyện Bắc Quang thuộc tỉnh Hà Giang
- Phía nam tiếp giáp với huyện Chiêm Hóa
- Phía bắc tiếp giáp với huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang.
Huyện có tổng diện tích 917,55 km², với dân số năm 2020 là 51.421 người và mật độ dân số đạt 56 người/km².
Địa hình
Lâm Bình sở hữu địa hình gồ ghề, với nhiều núi đá vôi và độ cao giảm dần từ bắc xuống nam. Khu vực này bị chia cắt mạnh, nhiều nơi gần như biệt lập, dẫn đến sự kết nối giữa các khu dân cư và các điểm kinh tế - xã hội bị hạn chế. Nằm trên vòng cung sông Gâm, Lâm Bình có nhiều dãy núi lớn, với núi đất và núi đá đan xen nhau, hình thành các thung lũng lớn và nhỏ. Huyện có nhiều đỉnh núi cao trên 1.000m, tập trung chủ yếu ở các xã Lăng Can, Xuân Lập, Phúc Yên, trong đó đỉnh núi cao nhất là núi Phia Choóng (thuộc xã Bình An, cao 1.229m).
Những khu vực này có địa hình rất hiểm trở, bị chia cắt mạnh mẽ, giao thông gặp nhiều khó khăn, với độ che phủ rừng còn khá lớn, đồng thời là vùng giàu tài nguyên nhất của huyện.
Khí hậu
Do ảnh hưởng của địa hình, khí hậu tại Lâm Bình biến đổi theo độ cao và cấu trúc núi. Các khu vực trên 800m có khí hậu á nhiệt đới, với nhiệt độ cao nhất trong năm khoảng trên 30°. Các khu vực dưới 800m có khí hậu á nhiệt đới, nóng ẩm. Khí hậu chia thành 4 mùa rõ rệt trong năm, nhiệt độ trung bình năm khoảng 22 độ, độ ẩm không khí khoảng 85%, và lượng mưa trung bình đạt 1.800mm.
Với vị trí sâu trong nội địa và được bảo vệ bởi nhiều dãy núi cao, Lâm Bình thường xuyên trải qua gió xoáy và gió lốc không theo chu kỳ. Mùa đông nhiều sương mù, đầu mùa hè thường có mưa đá, còn mùa mưa dễ xảy ra lũ ngắn bất ngờ.
Sông ngòi
Sông và suối ở đây có dòng chảy mạnh, nhiều thác ghềnh và thường xuyên xảy ra lũ trong mùa mưa. Mặc dù điều này gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng mang lại nhiều tiềm năng. Đặc biệt, huyện có lòng hồ thủy điện Na Hang rộng hơn 00ha, không chỉ cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất, mà còn là nơi cung cấp thủy sản phong phú với nhiều loại cá ngon, thuận lợi cho du lịch và có khả năng phát triển thủy điện nhỏ và các công trình thủy điện lớn. Nhiều thác nước tạo nên những cảnh đẹp hấp dẫn.
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 78.495,51 ha, trong đó: Đất nông nghiệp chiếm 71.214,65 ha, tương đương 90,72%, với đất lâm nghiệp là 68.969,78 ha, chiếm 87,86%; đất sản xuất nông nghiệp là 2.180,47 ha, chiếm 2,78%; các loại đất khác là 7.280,86 ha, chiếm 9,28%. Diện tích đất nông nghiệp không lớn nhưng phù hợp với việc phát triển cây lương thực và cây công nghiệp. Khu vực có thảm thực vật phong phú, thuận lợi cho chăn nuôi đại gia súc và trồng cây ăn quả ôn đới, cũng như phát triển nghề rừng.
Tài nguyên rừng
Rừng ở Lâm Bình phong phú với nhiều loại gỗ quý, dược thảo và động vật hoang dã hiếm có, là nguồn lực kinh tế quan trọng của huyện. Với vị trí ở thượng nguồn sông Gâm, rừng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước và giảm thiểu ảnh hưởng của lũ lụt đối với các khu vực hạ lưu.
Lịch sử
Trước đây, khu vực huyện Lâm Bình từng thuộc về hai huyện: Na Hang và Chiêm Hóa. Theo tài liệu như Đại Nam nhất thống chí và các sách địa lý lịch sử khác: Trong các triều đại Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009), Lý (1010 - 1225), Trần (1225 - 1400), khu vực này thuộc châu Vị Long. Thời Minh (1414 - 1427), là châu Đại Man. Từ triều đại Lê đến đầu triều Nguyễn, châu Đại Man thuộc phủ Yên Bình. Vào năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), châu Đại Man được đổi tên thành châu Chiêm Hóa, thuộc phủ Yên Ninh (sau đổi thành phủ Tương Yên).
Trong thời kỳ Pháp thuộc, châu Chiêm Hóa nằm trong Tiểu quân khu Hà Giang (1891 - 1895), sau đó chuyển sang Tiểu quân khu Tuyên Quang (1895 - 1900), thuộc Đạo quan binh 3 và cuối cùng thuộc tỉnh Tuyên Quang, được tái lập vào ngày 11 tháng 4 năm 1900.
Vào tháng 11 năm 1944, châu Chiêm Hóa được chia thành hai đơn vị hành chính: Chiêm Hóa và Nà Hang.
- Châu Chiêm Hóa bao gồm 4 tổng: Cổ Linh, Đài Quan, Vĩnh Gia và Thổ Bình.
- Châu Nà Hang bao gồm 3 tổng: Vĩnh Yên, Thượng Lâm và Côn Lôn.
Vào ngày 28 tháng 1 năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 07/NQ-CP, quyết định thành lập huyện Lâm Bình thuộc tỉnh Tuyên Quang. Quyết định này dựa trên việc điều chỉnh 60.128,24 ha diện tích tự nhiên và 18.159 người dân từ 5 xã của huyện Na Hang (bao gồm: toàn bộ 7.343,48 ha với 4.797 người dân từ xã Lăng Can, 12.977,80 ha với 5.129 người dân từ xã Thượng Lâm, 14.554,99 ha với 53 người dân từ xã Khuôn Hà, 17.694,85 ha với 2.771 người dân từ xã Phúc Yên, và 7.557,12 ha với 1.909 người dân từ xã Xuân Lập) và 18.023,93 ha với 11.300 người dân từ 3 xã của huyện Chiêm Hóa (bao gồm: toàn bộ 5.264,50 ha với 2.852 người dân từ xã Bình An, 6.877,77 ha với 5.077 người dân từ xã Thổ Bình, và 5.881,66 ha với 3.371 người dân từ xã Hồng Quang).
Sau khi thành lập, huyện Lâm Bình có tổng diện tích 78.152,17 ha và dân số 29.459 người, với 8 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm các xã: Lăng Can (huyện lỵ của huyện Lâm Bình), Thượng Lâm, Khuôn Hà, Phúc Yên, Xuân Lập, Bình An, Thổ Bình, và Hồng Quang.
Vào ngày 27 tháng 4 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1262/NQ-UBTVQH14, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2021, quy định rằng:
- Chuyển 2 xã Minh Quang và Phúc Sơn từ huyện Chiêm Hóa sang huyện Lâm Bình quản lý.
- Thay đổi xã Lăng Can thành thị trấn Lăng Can (thị trấn huyện lỵ của huyện Lâm Bình).
Hiện tại, huyện Lâm Bình bao gồm 1 thị trấn và 9 xã như sau.
Quản lý hành chính
Huyện Lâm Bình bao gồm 10 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có thị trấn Lăng Can (trung tâm huyện) và 9 xã: Bình An, Hồng Quang, Khuôn Hà, Minh Quang, Phúc Sơn, Phúc Yên, Thổ Bình, Thượng Lâm, Xuân Lập.
Phát triển kinh tế - xã hội
Kinh tế
Nông nghiệp
Diện tích đất nông nghiệp là 2.180,47 ha, với các cánh đồng chủ yếu nhỏ hẹp, phân bố dọc theo các triền đồi. Một số cánh đồng rộng hơn nằm ở các xã như Thượng Lâm, Thổ Bình, và các xã khác. Dù diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện không lớn nhưng rất màu mỡ, phù hợp cho việc trồng cây lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, và các loại cây ăn quả ôn đới.
Tổng sản lượng lương thực năm 2013 đạt 17.375 tấn, với năng suất lúa là 56,2 tạ/ha và năng suất ngô là 38,7 tạ/ha. Hệ số sử dụng đất đạt 2,1 lần. Diện tích cây chè là 247,3 ha. Huyện đang triển khai một số loại cây trồng mới như lúa lai, ngô lai và cây bông tại các xã như Thượng Lâm, Lăng Can, Phúc Yên, Khuôn Hà. Trong tương lai, sẽ chú trọng phát triển các cây công nghiệp hàng hóa như lạc, chè, mía và một số cây dược liệu.
Lâm nghiệp
Toàn huyện có tổng diện tích đất lâm nghiệp là 68.969,78 ha, nơi có nhiều loại gỗ quý, thảo dược và động vật hoang dã hiếm.
Ngoài việc khai thác, huyện còn chú trọng trồng mới, khoanh nuôi và tái sinh rừng, tập trung vào các loại cây chủ yếu như quế, lát, mỡ, keo. Sau khi giao đất và giao rừng, toàn huyện có 68.985 ha rừng với độ che phủ đạt trên 70%.
Nông lâm nghiệp và thủy sản
Điều kiện tự nhiên của huyện rất thuận lợi cho sự phát triển của các loại cây công nghiệp như bông, chè Shan, lạc và chăn nuôi đại gia súc như trâu, bò, ngựa, dê. Các loại cá có giá trị kinh tế cao như dầm xanh, Anh vũ, cá lăng, cá Chiên được nuôi tại lòng hồ thủy điện Tuyên Quang. Độ che phủ rừng đạt hơn 70%, với nhiều loài cây quý hiếm như đinh hương, nghiến, trai, sến.
Đàn trâu hiện có 8.312 con, đàn bò 1.345 con, và đàn lợn 23.476 con. Dự án ương nuôi cá giống cho hồ chứa nước thủy điện Tuyên Quang đang được thực hiện. Huyện đang triển khai nuôi các loại cá mới như cá tầm, cá lăng, cá rô phi đơn tính, và phát triển 56 lồng cá trên hồ thủy điện. Tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác năm 2013 đạt 331 tấn.
Công nghiệp
Khai thác khoáng sản, chế biến nông lâm sản, và các hoạt động công nghiệp khác.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định năm 1994) lên tới 10.140 triệu đồng.
Công nghiệp thủ công
Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống:
- Nghề trồng bông tại các xã: Thượng Lâm, Lăng Can, Phúc Yên, Khuôn Hà, sản phẩm bao gồm bông và vải sợi.
- Nghề dệt thổ cẩm tại các xã: Thượng Lâm, Lăng Can, Phúc Yên, Khuôn Hà, sản phẩm như chăn, gối, địu, quần áo, khăn, túi thổ cẩm.
- Nghề đan lát mây, tre, giang tại xã Lăng Can, sản phẩm gồm: Mành cọ, khay, giỏ, đĩa,...
- Nghề gò, hàn, rèn tại các xã Thượng Lâm, Xuân Lập, Bình An với các sản phẩm như dao, cuốc, xẻng, cày, bừa và nhiều sản phẩm khác.
- Nghề mộc tại các xã Thượng Lâm, Lăng Can, Thổ Bình với sản phẩm từ gỗ, ván, tủ, giường, bàn ghế,...
- Các ngành nghề mới: Khai thác sỏi, cát tại xã Lăng Can, khai thác đá tại Thượng Lâm, Lăng Can; sản xuất gạch không nung tại các xã Lăng Can, Thổ Bình,...
Thương mại và dịch vụ
Huyện có 3 chợ để trao đổi và mua bán các mặt hàng tiêu dùng cùng với 16 điểm bán hàng chính sách xã hội. Các chợ tiêu biểu bao gồm:
- Chợ Thượng Lâm (trung tâm xã Thượng Lâm) họp vào thứ 5 và chủ nhật hàng tuần. Các mặt hàng chủ yếu tại chợ bao gồm quần áo, giày dép, hàng nông sản, lương thực, thực phẩm.
- Chợ Lăng Can (trung tâm xã Lăng Can) họp vào thứ 7 hàng tuần.
- Chợ Hồng Quang (trung tâm xã Hồng Quang) họp vào thứ 5 hàng tuần.
Văn hóa xã hội
Ngành giáo dục
Năm học 2013 - 2014: Toàn huyện có tổng cộng 26 trường học, bao gồm:
- Mầm non: 8 trường
- Tiểu học: 8 trường
- THCS: 8 trường
- THPT: 2 trường
Số lượng lớp học ở mỗi cấp học:
- Mầm non: 120 nhóm lớp với 2.280 học sinh
- Tiểu học: 178 lớp với 2.548 học sinh
- Trung học cơ sở: 62 lớp với 1.790 học sinh
- THPT: 21 lớp với 837 học sinh
Đội ngũ giáo viên:
- Mầm non: 199 người (21 cán bộ quản lý, 170 giáo viên, 8 nhân viên)
- Tiểu học: 251 người (22 cán bộ quản lý, 220 giáo viên, 9 nhân viên)
- THCS: 155 người (16 cán bộ quản lý, 128 giáo viên, 11 nhân viên)
- THPT: 53 người (4 cán bộ quản lý, 47 giáo viên, 2 nhân viên)
Ngành y tế
Năm 2014, huyện có 1 bệnh viện đa khoa với 50 giường bệnh và 8 trạm y tế xã với tổng cộng 40 giường bệnh.
Huyện có 12 bác sĩ, 52 y sĩ, 23 điều dưỡng và nữ hộ sinh, cùng 5 dược sĩ.
Bưu chính và viễn thông
Huyện có 2 bưu cục cấp III.
- Bưu cục Lăng Can quản lý mạng lưới bưu chính toàn huyện
- Bưu cục Thượng Lâm.
Có 5 điểm bưu điện văn hóa xã tại: Khuôn Hà, Xuân Lập, Bình An, Thổ Bình, Hồng Quang.
Đường thư vận chuyển đến Tỉnh lỵ mỗi ngày 1 chuyến. Duy trì phát công văn, thư báo đến 100% các xã, cơ quan, đơn vị trong huyện hàng ngày.
Huyện có 1 Đài truyền thanh - Truyền hình và 1 trạm thu phát sóng truyền hình tại xã Thượng Lâm. Đã lắp đặt và đưa vào sử dụng trạm truyền thanh không dây tại 8/8 xã.
Điện khí hóa nông thôn
Năm 1996, mạng lưới điện quốc gia được đưa vào sử dụng và hoạt động ổn định. Đến nay, điện đã phủ kín 100% các xã với 100 km đường dây 35 kV, 108 km đường dây 0,4 kV và 44 trạm biến áp.
Ngành du lịch
Toàn huyện có 7 di tích, danh thắng được xếp hạng cấp Quốc gia: Chùa Phúc Lâm, xưởng Quân khí H52, hang Phia Vài, động Song Long, thác Nặm Me, thắng cảnh Thượng Lâm, Đền Pú Bảo.
- Du lịch tâm linh: chùa Phúc Lâm, đền Pú Bảo...
- Du lịch sinh thái: rừng nguyên sinh phong phú, bảo tồn nhiều loài động vật quý hiếm, 99 ngọn núi, thác Nặm Me, lòng hồ thủy điện Tuyên Quang với Hòn Cọc Vài, thác Khuổi Slung, động Song Long, hang Phia Vài, xưởng Quân khí H52.
- Du lịch văn hóa: lễ hội Lồng tông vào tháng Giêng với các hoạt động văn hóa truyền thống của người Tày, Dao, Mông, Pà Thẻn. Lễ hội Lồng tông của dân tộc Tày được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia năm 2012.
- Du lịch danh lam thắng cảnh: 99 ngọn núi, Cầu Da (xã Thượng Lâm).
Hệ thống giao thông
Từ tỉnh lỵ Tuyên Quang đến trung tâm huyện có hai tuyến đường chính:
- Tuyến 1: Dài 150 km, từ Tuyên Quang theo Quốc lộ 2A (Tuyên Quang - Hà Giang) đến km 31, rẽ phải theo đường tỉnh 190 qua thị trấn Vĩnh Lộc (Chiêm Hóa) đến Na Hang, sau đó tiếp tục 40 km đường Na Hang - Lăng Can.
- Tuyến 2: Dài 123 km, từ Tuyên Quang theo Quốc lộ 2A (Tuyên Quang - Hà Giang) đến km 31, rẽ phải theo đường tỉnh 190 qua thị trấn Vĩnh Lộc (Chiêm Hóa), sau đó theo đường tỉnh 188 và tiếp tục 55 km đường Chiêm Hóa – Lăng Can.
Hệ thống giao thông đường bộ
- Quốc lộ 279
- Đường tỉnh 185
- Đường tỉnh 188
- Đường Thượng Lâm đến Bến Thủy (ĐH. 01)
- Đường Thượng Lâm - Phúc Yên (ĐH. 02)
- Đường Nà Nghè – Thượng Minh, xã Hồng Quang (ĐH. 03).
Đường nội thị
- Nà Mèn - Tràn Nặm Đíp (ĐT. 01)
- Tràn UBND xã Lăng Can - Sân vận động Bản Kè
- Sân vận động Bản Kè – Bản Khiển (ĐT. 03).
Tại bến xe, tổng số phương tiện phục vụ đón trả khách là 6 xe, bao gồm:
- Vận tải khách liên tỉnh: 6 xe
- Vận tải khách liên tỉnh liền kề: 1 xe
- Vận tải khách nội tỉnh và nội huyện: 6 xe
- Số chuyến xuất bến trung bình mỗi ngày: 07 chuyến, với lượng khách trung bình là 200 người/ngày.
Giao thông đường thủy
Gồm 2 tuyến chính:
- Tuyến 1: Từ Bến Thủy (xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình) đến huyện Na Hang
- Tuyến 2: Từ Bến Thủy (xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình) đến huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang.
Ghi chú
Đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Tuyên Quang | |
---|---|
Thành phố (1) | Tuyên Quang (tỉnh lỵ) |
Huyện (6) | Chiêm Hóa · Hàm Yên · Lâm Bình · Na Hang · Sơn Dương · Yên Sơn |
Đơn vị hành chính thuộc tỉnh Tuyên Quang |