Khu di tích lịch sử Lâm Kinh cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây Bắc, nằm tại thị trấn Lâm Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đây là một di tích lịch sử quốc gia được công nhận từ năm 1962. Năm 2012, khu di tích này được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt.
Nhân vật sáng lập Lâm Kinh là Lê Thái Tổ. Sau 10 năm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428) để đuổi đánh quân Minh và lên ngôi hoàng đế đóng đô ở Đông Kinh (Thăng Long), vua Thái Tổ lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Đồng thời vua đã xây dựng ở quê hương của mình, Lam Sơn, một thành phố gọi là Lam Kinh hay còn gọi là Tây Kinh.
Thành điện Lam Kinh phía bắc dựa vào núi Dầu, phía Nam nhìn ra sông Chu - có núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi Hàm Rồng chắn phía tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được bố trí xây dựng theo hướng Nam - Bắc trên một mảnh đồi gò có hình dáng như một chữ Vương (王). Tường thành xây dựng có chiều dài 314m, chiều rộng 254m, tường thành phía Bắc hình cánh cung với bán kính 164m, dày 1m. Các khảo cổ và dấu vết cho thấy rằng ngày xưa, ở đây từng tồn tại Ngọ môn, sân rồng, chính điện, khu Thái miếu... toàn bộ nguy nga và lộng lẫy.
Khu di tích lịch sử Lam Kinh rộng khoảng 30 ha, bao gồm các lăng phần, đền miếu và một hành cung của các vua nhà Hậu Lê mỗi khi về thăm tổ tiên.
Vị trí địa lý
Thành điện Lam Kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu, phía Nam nhìn ra sông Chu, xa là núi Chúa, bên trái là rừng Phú Lâm, bên phải là núi Hương. Phía trước ngoài thành hoàng thành còn lại dấu vết của cổng vào rộng hơn 6m, hai bên có xây 2 bức tường thành hình cánh cung kéo dài đến sát bờ sông Ngọc, móng tường thành còn lại dày 1,08m. Qua cổng thành khoảng 10m đến một con sông đào có tên là sông Ngọc. Sông này bắt nguồn từ Tây Hồ, chạy vòng qua trước thành và điện Lam Kinh. Theo sách Hoàng việt dư địa chí xưa, nước sông trong veo, đáy sông có nhiều sỏi tròn to nhỏ, trông rất đẹp. Trên sông có một cây cầu hình cánh cung tên là Tiên Loan Kiều, hay còn gọi là Cầu Bạch, trên cầu có nhà, dáng vẻ như 'Thượng gia hạ kiều'. Qua cầu khoảng 50m thì đến một giếng cổ. Trước kia dưới giếng còn thả sen để giữ cho nước mát trong những ngày hè nóng nực. Bờ giếng phía Bắc có lát bậc đá lên xuống, được gọi là bến nước.
Trước cửa Ngọ môn có hai tượng nghê đá đứng canh. Nền Ngọ môn rộng 11m và dài 14,1m, có 3 cửa ra vào. Cửa giữa rộng 3,6m, hai cửa bên rộng 2,74m và được đặt ở hàng cột chính giữa. Đặc điểm của bốn cột chính là rất lớn, đường kính chân tảng đo được 78 cm. Ngọ môn có 3 gian, bước gian giữa rộng 4,60m, bước gian bên rộng 3,50m.
Dựa vào chiều rộng của nền Ngọ môn và xét về tỷ lệ quy mô các công trình kiến trúc trong khu cung điện, các nhà nghiên cứu kiến trúc cổ đã đoán định Ngọ môn là một công trình kiến trúc khá lớn.
Qua Ngọ môn là đến sân rồng (hay còn gọi là sân chầu). Sân này trải rộng khắp bề ngang của chính điện và đến gần thềm của hai nhà tả vu và hữu vu với tổng diện tích 39,2m² (rộng 58,5m và dài 60,5m).
Tiếp theo từ sân rồng là khu chính điện, gồm 3 toà điện lớn xây trên một nền đất rộng, cao 1,8m so với sân rồng, bề ngang 38m, chiều sâu 46m. Mặt bằng của điện được bố trí hình chữ Công (工).
Từ sân rồng lên chính điện là thềm rộng lớn, rộng 5m với 9 bậc thang, có 3 lối đi lên, chiều rộng không đều nhau, lối giữa rộng 1,8m, hai lối bên rộng 1,21m. Hai bên lối giữa được trang trí bằng hình tượng rồng tạc tròn, thân uốn lượn sóng xoắn, trên thân rồng khắc hoa văn hình ngọn lửa trên sóng xoắn, đỉnh rồng thể hiện một bờm, miệng rồng trang trí hình râu xoắn, dưới cằm có râu dài xoắn hình vặn thừng, tay rồng giống như bàn tay người nắm gọn râu phần dưới đặt trên một viên ngọc. Được gọi là long hí châu (rồng giỡn ngọc trai).
Vĩnh Lăng, nơi lăng của vua Lê Thái Tổ
Tổng quan chung
Lăng của vua Lê Thái Tổ được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng cách điện Lam Kinh 50 m. Vĩnh Lăng được đặt ở một vị trí rất đẹp, phía trước có con đường rộng rãi và phía trước là núi Chúa, phía sau là núi Dầu, hai bên tả, hữu có hai dãy núi tạo thành thế 'hổ phục rồng chầu'. Đối diện lại là sông làm 'bạch hổ'.
Bố cục và phong cách mai táng của Vĩnh Lăng đơn giản nhưng trang trọng, tự nhiên và trang nhã. Lăng được đắp từ đất thành hình lập phương, xung quanh là các tường đá đục, kích thước 4,4 x 1 m. Phía trước lăng có hai hàng tượng quan hầu và tượng các con giống tạc bằng đá để trấn trạch (bốn đôi con giống đối nhau theo thứ tự hai nghê, hai ngựa, hai tê giác, hai hổ). Giữa hai hàng tượng là một lối đi rộng 2m25 gọi là 'đường thần đạo'. Tổng thể lăng Lê Thái Tổ (Vĩnh Lăng) nhìn từ xa vẫn giản dị mà tôn nghiêm, mang đậm nét trang trọng.
Bia Vĩnh Lăng
Bia Vĩnh Lăng được đặt cách lăng 300m về phía tây nam của thành điện Lam Kinh. Bia làm từ đá trầm tích biển nguyên khối, cao 2,97m, rộng 1,94m, dày 0,27m, đặt trên lưng một con rùa lớn cũng được tạc từ đá trầm tích biển nguyên khối, dài 3,46m, rộng 1,9m, cao 0,94m kể cả đế.
Nhà bia được xây lại vào năm 1961, nền nhà gần vuông với mỗi cạnh 8,8m và mái cong lợp ngói mũi hài, được đỡ bằng 16 cột, mỗi góc 4 cột theo kiểu nhà Lê. Nghệ thuật trang trí tinh tế trên bia phù hợp với nội dung văn bia do Nguyễn Trãi soạn. Văn bia ngắn gọn, cô đọng phản ánh đầy đủ thân thế và công lao của vua Lê Thái Tổ.
Các lăng mộ khác
Danh sách các lăng của các vị vua và hoàng hậu trong khu sơn lăng của Triều đại Lê Sơ tại Lam Kinh bao gồm:
- Hựu Lăng: Lăng của vua Lê Thái Tông
- Khôn Nguyên Lăng: Lăng của Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao (mẹ của vua Lê Thánh Tông). Điểm đặc biệt của lăng này là tượng quan hầu là nữ quan.
- Chiêu Lăng: Lăng của vua Lê Thánh Tông.
- Dụ Lăng: Lăng của vua Lê Hiến Tông.
- Kính Lăng: Lăng của vua Lê Túc Tông.
Đền thờ vua Lê Lợi
Khu đền thờ vua Lê Lợi nằm tại xã Xuân Lam (nay là thị trấn Lam Sơn), huyện Thọ Xuân, cách khu di tích Lam Kinh 150m về phía Nam. Đền được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 20 nhờ vào sự đóng góp của một số nhà hảo tâm, dùng để thờ phụng vua Lê Thái Tổ (trong khi khu di tích Lam Kinh chưa được trùng tu sau khi bị tàn phá). Hiện nay, khu đền thờ này đã được quản lý chung với khu di tích Lam Kinh.