Lăng Tự Đức | |
---|---|
Khiêm Lăng | |
Wikimedia | © OpenStreetMap | |
Tên | |
Tên chính xác | Tự Đức Lăng (嗣德陵) |
Vị trí địa lý | |
Quốc gia | Việt Nam |
Vị trí | Quần thể di tích cố đô Huế |
Kiến trúc | |
Kiểu dáng kiến trúc | Lăng tẩm |
Lịch sử và sự quản lý | |
Ngày xây dựng | 1866 |
Người xây dựng | Tự Đức |
Lăng mộ Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) là một tổ hợp kiến trúc độc đáo, nơi an nghỉ của vua Tự Đức, nằm trong một thung lũng hẹp tại làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (trước đây), hiện nay thuộc thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Khi mới xây dựng, lăng được gọi là Khiêm Cung (謙宮). Sau khi vua Tự Đức qua đời, tên lăng được đổi thành Khiêm Lăng (謙陵).
Lăng Tự Đức nổi bật với kiến trúc tinh xảo, cảnh sắc thiên nhiên hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của triều đại nhà Nguyễn.
Quá trình xây dựng lăng
Ngay từ khi còn sống, vua Tự Đức đã nghĩ đến việc xây dựng lăng mộ cho mình. Với khả năng thi phú, ông đã chọn một vị trí yên bình và xứng đáng để an nghỉ, đó là một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (lưu ý rằng 'vạn niên cơ' chỉ là thuật ngữ chung cho các lăng mộ vua, không phải tên lăng như nhiều tài liệu thường nhầm lẫn). Tuy nhiên, công việc xây dựng gặp nhiều khó khăn do khổ cực và sự ngược đãi của quan lại đối với dân phu, dẫn đến cuộc nổi dậy được gọi là loạn Chày Vôi.
Theo truyền thuyết, dân chúng đã than phiền:
- Vạn Niên là Vạn Niên nào
- Thành xây bằng xương lính, hào đào bằng máu dân
Vào ngày 8-9 âm lịch năm Bính Dần (1866), tức năm thứ 19 của triều đại Tự Đức, công việc xây dựng Vạn Niên Cơ khiến quân lính và dân phu phải chịu đựng khổ cực, dẫn đến nhiều sự oán thán. Nhân dịp này, nhóm của Đoàn Hữu Trưng cùng các em Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, và các đồng chí như Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí đã phát động cuộc khởi nghĩa với lý do tôn Đinh Đạo (cháu của Tự Đức, tên cũ là Ưng Đạo) lên làm vua. Những người tham gia phần lớn là dân phu đang tức giận vì bị bắt lao động nặng nhọc. Họ dùng chày vôi - công cụ lao động - làm vũ khí, nên được gọi là 'giặc chày vôi'. Cuộc nổi dậy thất bại và cả gia đình Ưng Đạo bị xử án, Đoàn Hữu Trưng cùng hai em của ông đều bị giết khi còn trẻ.
Do sự việc này, vua Tự Đức phải đổi tên Vạn Niên Cơ thành Khiêm Cung và viết một bài biểu để xin lỗi. Đến năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức sống thêm 10 năm nữa rồi qua đời.
Toàn cảnh lăng mộ
Gần 50 công trình trong lăng, bao gồm cả khu vực điện thờ và lăng mộ, đều có chữ
Khu vực bên trong cổng Khiêm Cung Môn (謙宫門) được thiết kế để vua có thể nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Trung tâm là điện Hòa Khiêm (和謙殿), nơi vua làm việc và hiện đang lưu giữ bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên trái và phải là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu, dành cho các quan văn võ hầu cận. Phía sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, trước đây là nơi nghỉ ngơi của vua, sau này được dùng để thờ bà Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường, nơi lưu giữ đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có Minh Khiêm Đường, một trong những nhà hát cổ nhất Việt Nam, nơi vua thưởng thức các màn biểu diễn. Có một hành lang nối từ Ôn Khiêm Đường ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện, nơi ở của các cung phi, cả khi vua còn sống và khi đã qua đời. Gần đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.
Khu lăng mộ nằm ngay sau khu vực tẩm điện. Sau Bái Đình với hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình, nơi đặt tấm bia đá Thanh Hóa nặng 20 tấn khắc bài 'Khiêm Cung Ký', do vua Tự Đức soạn năm 1871. Mặc dù có 103 bà vợ, Tự Đức không có con nối dõi, nên viết bài văn bia này thay cho bia 'Thánh Đức Thần Công' của các lăng khác. Bài văn dài 4.935 chữ, là tự sự của vua về cuộc đời, vương nghiệp, bệnh tật và những công lao, tội lỗi của mình trước lịch sử. Đằng sau bia là hai trụ biểu lớn như hai ngọn đuốc phát sáng, cùng hồ Tiểu Khiêm hình trăng non chứa nước mưa để linh hồn vua được thanh tẩy.
Lăng Khiêm Thọ
Lăng Khiêm Thọ là nơi yên nghỉ của Lệ Thiên Anh Hoàng hậu, vợ vua Tự Đức. Lăng được xây dựng theo kiểu truyền thống của các lăng hoàng hậu nhà Nguyễn với bốn tầng nền, được nối với nhau bằng hệ thống bậc cấp. Ba tầng dưới là các sân rộng, còn tầng trên cùng là nơi đặt mộ, bao quanh bởi hai lớp tường thành. Vòng tường ngoài có các cổng ra vào.
Ảnh minh họa
- Quần thể di tích Cố đô Huế
- Lăng tẩm Huế
- Triều Nguyễn
- Tự Đức
- Huế
- Khiêm Lăng Lưu trữ 2006-05-18 từ Wayback Machine, bài viết của Trần Đức Anh Sơn trên trang Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.
Liên kết tham khảo
- Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế Lưu trữ ngày 18 tháng 05 năm 2006 từ Wayback Machine
- Lăng Tự Đức Lưu trữ ngày 13 tháng 01 năm 2005 từ Wayback Machine
Quần thể di tích Cố đô Huế | ||
---|---|---|
Ngoài kinh thành |
| |
Trong kinh thành |
| |
Trong Hoàng thành |
| |
Tử Cấm thành |
| |
Hệ thống thủy đạo |
|