Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt | |
---|---|
Lăng Ông - Bà Chiểu | |
Tam quan Lăng Ông, ghi "Thượng Công Miếu" | |
Wikimedia | © OpenStreetMap | |
Thông tin chung | |
Tên khác | Thượng Công Miếu (上公廟) |
Địa chỉ | 1 Vũ Tùng, Phường 1, Quận Bình Thạnh, TP.HCM |
Tọa độ | |
Diện tích tầng trệt | 18.501 mét vuông (199.140 foot vuông) |
Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (còn gọi là Thượng Công Miếu, chữ Hán: 上公廟, thường được biết đến là Lăng Ông - Bà Chiểu) là nơi thờ cúng và an táng của Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832), tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng, với cổng Tây nằm ở số 126 đường Lê Văn Duyệt, phường 1, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam. Vì nằm ở khu vực Bà Chiểu nên khu di tích này thường được gọi là Lăng Ông - Bà Chiểu để chỉ rõ vị trí.
Trước năm 1975, con đường chạy dọc theo phía tây của Lăng Ông (từ Lăng Ông đến cầu Bông) mang tên đại lộ Lê Văn Duyệt. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1975, đoạn đường này được đổi tên thành Đinh Tiên Hoàng và sáp nhập với con đường cùng tên ở Quận 1. Đến ngày 16 tháng 9 năm 2020, tên đường cũ Lê Văn Duyệt được khôi phục để kỷ niệm ngày giỗ lần thứ 188 của ông.
Vị trí và tên gọi
Lăng Ông tọa lạc trên diện tích 18.501 m², trên một gò đất cao, bao quanh bởi bốn con đường: Lê Văn Duyệt, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng.
Gần lăng là khu chợ Bà Chiểu, vì vậy khi nhắc đến chợ, nhiều người thường nghĩ ngay đến lăng Ông. Thực ra, không phải lăng này thờ ông bà Chiểu như nhiều người lầm tưởng, mà đây là nơi thờ ông bà Lê Văn Duyệt. Do kiêng kỵ tên gọi, từ lâu người dân đã kết hợp 'lăng Ông' với 'Bà Chiểu' để chỉ khu lăng của Tả Quân.
Nhà văn Sơn Nam cho biết tên Bà Chiểu mới xuất hiện dưới thời vua Tự Đức, nơi đây có nghĩa là ao nước tự nhiên và Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao đó. Thủ Đức cũng có một vùng đất mang tên Linh Chiểu.
Lịch sử
Phần mộ là phần được xây dựng sớm nhất trong công trình kiến trúc của lăng.
Năm 1835, sau biến cố tại Phiên An, Lê Văn Duyệt bị kết án vì bị cho rằng đã góp phần vào sự biến loạn. Vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san phẳng mộ của ông và dựng bia đá với tám chữ Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xử, ghi rõ tội trạng của Lê Văn Duyệt theo Đại Nam thực lục chính biên của triều Nguyễn.
Vào năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi đã cho dỡ bỏ trụ đá ghi tội và khôi phục lại mộ. Đến năm đầu triều Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn đã dâng sớ xin phục hồi danh tước và phong ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt. Nhà vua cảm động và đã truy phong cho ba ông, ban phẩm hàm cho con cháu, đồng thời mở rộng và sửa sang lại mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định. Theo nhà văn Sơn Nam, dân làng Long Hưng đã trình báo một người cháu nội của Lê Văn Phong tên là Lê Văn Thi, người đã trốn tránh suốt thời gian vì sợ tội. Sau đó, ông Thi được phép về Bà Chiểu để quản lý việc chăm sóc Lăng Ông, và hiện nay trong miếu vẫn còn thờ ông Thi như một Tiền hiền.
Kể từ khi Hội Thượng Công Quý Tế được thành lập vào năm 1914, lễ cúng tế đã được tổ chức định kỳ hàng năm và công việc trùng tu được thực hiện nhiều lần. Ngày 6 tháng 12 năm 1989, toàn bộ khu lăng đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia.
Kiến trúc
Khu lăng được bao bọc bởi một bức tường dài 500m và cao 1,2m, xây dựng vào năm 1948 với bốn cổng ra vào ở các hướng. Năm sau, cổng Tam Quan cũng được xây dựng, với hàng chữ Hán Thượng Công Miếu nổi bật ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này từng được chọn làm biểu tượng của vùng Sài Gòn-Gia Định xưa.
Khu lăng được đặt trên một trục đường chính. Từ cổng Tam Quan ở phía Nam, đi qua một khu vườn cảnh, bạn sẽ thấy:
- Nhà bia, nơi đặt bia đá ghi công lao của Tả quân
- Mộ của Tả quân và vợ, với bình phong và tường hoa bao quanh
- Miếu thờ
Nhà bia
Nhà bia được xây dựng theo kiểu một ngôi điện nhỏ, với tường gạch và mái ngói âm dương. Bên trong, tấm bia đá khắc chữ Hán ghi 'Lê công miếu bia' (Bia dựng tại miếu thờ Lê công), do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải soạn năm Giáp Ngọ (1894). Nội dung văn bia ca ngợi công lao của Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân.
Lăng mộ
Toàn bộ khu mộ được xây dựng bằng loại vữa đặc biệt.
Mộ gồm hai ngôi mộ đôi, nơi an nghỉ của Tả quân và vợ là bà Đỗ Thị Phẫn. Hai ngôi mộ đặt song song, có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng cắt theo chiều dọc, đặt trên bệ lớn hình chữ nhật. Các nhà khảo cổ và kiến trúc sư gọi đây là mộ 'quy' (quy có nghĩa là rùa, do hình dạng giống như một con rùa đang nằm). Trước mộ có một khu vực nhỏ để thực hiện lễ nghi. Từ nhà bia nhìn vào, mộ của Lê Văn Duyệt nằm phía bên phải. Bao quanh mộ là bức tường đá ong dày hình chữ nhật, mở ra tận khu vực đốt nhang.
Ngoài ra, khu mộ còn có hai phần mộ nhỏ dành cho hai cô hầu.
Miếu thờ
Từ khu lăng mộ, đi qua một khoảng sân dài đến khu vực 'Thượng công linh miếu', nơi tổ chức các hoạt động tín ngưỡng thờ cúng Lê Văn Duyệt. Miếu được chia thành ba phần: tiền điện, trung điện và chính điện, mỗi phần cách nhau bởi một khoảng sân mở, gọi là sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên của trục chính là hai dãy Đông lang và Tây lang.
Công trình thể hiện rõ phong cách kiến trúc miếu thờ của triều Nguyễn, với các mái 'trùng thiềm điệp ốc' và kỹ thuật lắp ráp khung nhà bằng các lỗ mộng. Nhờ vào kỹ thuật chạm khắc gỗ, đá, và khảm sành sứ, nơi thờ cúng này vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính đến hiện tại.
Thờ cúng
Tại chính điện, có bức tượng đồng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được đúc từ đồng nguyên chất, cao 2,65 m và nặng 3 tấn, do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Tượng này là một phần của sáng kiến từ tạp chí Xưa & nay và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam trong dự án Đúc tượng đồng cho lăng Ông.
Tại trung điện, thờ Tả quân Lê Văn Duyệt (ở giữa), Thiếu phó Lê Chất (bên phải), và Kinh lược Phan Thanh Giản (bên trái).
Hàng năm, lăng tổ chức lễ giỗ Tả quân Lê Văn Duyệt vào các ngày 29 hoặc 30 tháng 7, và mồng 1, 2 tháng 8 âm lịch. Lễ giỗ được thực hiện theo nghi thức cấp tiểu cung đình triều Nguyễn, do Ban Quý Tế Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt chủ trì. Ngoài lễ tế, còn có lễ xây chầu - đại bội và lễ Tôn Vương, với các vở tuồng truyền thống để phụng cúng Đức Tả quân và phục vụ cộng đồng.
Khi ông qua đời, người dân đã coi ông như một vị thần, nên các nghi thức thờ cúng và lễ tế tại lăng đều mang đậm đặc tính thờ thần. Nói cách khác, lễ hội lăng Ông Bà Chiểu không phải là lễ tưởng nhớ các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực hay Nguyễn Huỳnh Đức, mà là lễ hội dân gian tương tự như lễ Bà Chúa Xứ ở An Giang hoặc vía Điện Bà ở Tây Ninh.
Số lượng người tham dự lễ hội lên đến hàng chục vạn, không chỉ người địa phương mà còn có nhiều khách từ các tỉnh xa. Đặc biệt, trong số khách hành hương có một lượng lớn người Hoa, chiếm khoảng một nửa tổng số người tham dự. Họ đến để dâng hương và tạ ơn một vị 'phúc thần', vì khi còn sống, ông đã thực hiện nhiều chính sách giúp đỡ cộng đồng người Hoa, tạo điều kiện cho họ phát triển nghề nghiệp và ổn định cuộc sống tại quê hương thứ hai của họ.
Ngoài các nhân vật như Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Phan Thanh Giản, đền còn thờ vợ ông, các Tiền hiền, Hậu hiền, cùng các 'Anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân' và những hội viên quá vãng (những người đã qua đời trong Hội Thượng Công Quý Tế và những vị đã góp phần gìn giữ truyền thống tại lăng).
Ghi chú
Tài liệu tham khảo
- Hình ảnh về Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt từ Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Cộng hòa Pháp, trong giai đoạn 1921-1935
- Thăm lăng Tổng trấn Gia Định thành vào ngày 2 tháng 5, Lưu trữ 13-11-2013 tại Wayback Machine
- Lễ hội truyền thống Lưu trữ 17-08-2008 tại Wayback Machine
- Bi kịch của Lê Văn Duyệt Lưu trữ 10-05-2008 tại Wayback Machine
- Việc dựng tượng đồng Lê Văn Duyệt Lưu trữ 15-09-2008 tại Wayback Machine
- Bản vẽ sơ đồ lăng Lê Văn Duyệt năm 2001. Lưu trữ 11-12-2013 tại Wayback Machine (file PDF) - file AutoCAD R14 (mật khẩu: sgmedia)
- Video chi tiết về Lăng Ông
Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh |
---|