Dàn Ý
I. Mở Bài
- Tổng Quan về Tác Giả Nguyễn Đình Chiểu và Tác Phẩm Truyện Lục Vân Tiên
- Đặt Vấn Đề Cần Thảo Luận
II. Thân Bài
* Xác Nhận Sự Chính Xác của Ý Kiến
* Phân Tích, Chứng Min...liệu
1. Cảm Nhận về Mối Quan Hệ giữa Ghét và Thương
- Mối Quan Hệ Giữa Lẽ Yêu Ghét và Lẽ Thương Được Tóm Tắt Ngay trong Câu Thứ 4 của Đoạn Trích:
+ “Vì Chưng Hay Ghét Cũng Là Hay Thương” : Gốc Rễ Của Sự Ghét Là Tình Thương, Thương Là Nền Tảng ⇒ Hai Tình Cảm Trái Ngược Nhau Nhưng Thực Chất Là Sự Đoàn Kết, Bổ Sung, Hỗ Trợ Cho Nhau
=> Đây Cũng Là Tuyên Ngôn về Lẽ Ghét Thương Của Ông Quán
- Ở Cuối Đoạn Trích, Một Lần Nữa Mối Quan Hệ Bền Chặt giữa Lẽ Ghét và Thương Lại Xuất Hiện:
+ “Nửa Phần Lại Ghét Nửa Phần Lại Thương”: Càng Yêu Thương Nhân Dân, Tiếc Thương Những Người Tài Đức Lại Càng Căm Ghét Những Kẻ Hại Dân Hại Đời.
2. Cảm Nhận về Lẽ Ghét
- Những Điều Ông Quán Ghét: Việc Tầm Phào, Ghét Kiệt, Trụ Mê Dâm, Đời U, Lệ Đa Đoan, Ghét Đời Ngũ Bá Phân Vân, Đời Thúc Quý Phân Băng…
=> Thực Chất: Ghét Vua Chúa Đắm Say Tửu Sắc, Tàn Bạo Bất Nhân, Ăn Chơi Hưởng Lạc, Không Chăm Lo Đến Đời Sống Của Dân, Để Triều Đại Suy Tàn
+ “Ghét Đời”: Ghét Cả Một Đời, Một Triều Đại, Một Chính Quyền, Một Xã Hội
+ Điệp Từ “Ghét”: Tăng Sức Mạnh Cảm Xúc
+ Điệp Từ Dân: Nền Tảng Của Lẽ Ghét Chính Là Yêu Dâm, Lo Cho Dân
=> Tác Giả Đã Đứng Về Phía Nhân Dân, Xuất Phát Từ Quyền Lợi Của Nhân Dân Để Ghét. Gốc Rễ Của Lẽ Ghét Chính Là Lẽ Thương
3. Cảm Nhận về Lẽ Thương
- Khi Bàn Về Lẽ Ghét, Ông Quán Thường Ghét Cả Một “Đời”, Khi Bàn Về Lẽ Thương,Ông Hướng Vào Những Người Cụ Thể :
+ Thương Là Thương Đức Thánh Nhân.
+ Thương Thầy Nhan Tử Dở Dang.
+ Thương Ông Gia Cát Tài Lành.
+ Thương Thầy Đổng Tử Cao Xa.
+ Thương Người Nguyên Lượng Ngùi.
+ Thương Ông Hàn Dũ Chẳng May.
+ Thương Thầy Liêm, Lạc Đã Ra.
- Điệp Từ “Thương”: Nhấn Mạnh Tình Cảm Đối Với Những Người Vì Dân Vì Nước, Cả Đời Bôn Ba Xuôi Ngược, Vất Vả Nhưng Sự Nghiệp Không Thành .
=> Thương Bằng Tình Cảm Chân Thành Và Niềm Tiếc Nuối
4. Cảm Nhận về Hình Tượng Nhân Vật Ông Quán
- Đây Là Nhân Vật Phụ Nhưng Để Lại Ấn Tượng Sâu Sắc Bởi:
+ Ông Quán Xuất Hiện Đầu Đoạn Trích Cho Cảm Nhận: Thông Kinh Sử, Bộc Trực, Thẳng Thắn, Yêu Ghét Phân Minh Rõ Ràng ⇒ Là Biểu Tượng Cho Tính Cách Nam Bộ và Tư Tưởng Nhà Văn
+ Thông Qua Những Lời Bàn Về Lẽ Ghét và Lẽ Thương: Tình Cảm Yêu Ghét Của Ông Quán Rõ Ràng, Dứt Khoát, Nồng Nàn, Mãnh Liệt. Thương Ghét Đều Chân Thành, Sắc Nhọn Mà Mộc Mạc Bình Dị ⇒ Tình Cảm Của Con Người Miền Nam
- Đây Là Nhân Vật Nguyễn Đình Chiều Gửi Gắm Tư Tưởng, Tình Cảm Của Mình Bởi Bản Thân Ông Là Người Nằm Trong Cảnh Ngộ Đáng Để “Thương” Ngoài Ra Đó Còn Là Sự Đồng Cảm, Kính Yêu Những Vĩ Nhân và Tiếc Thương Cho Cuộc Đời, Số Phận Của Bản Thân Mình.
III. Kết Bài
- Tổng Kết Lại Vấn Đề
- Liên Hệ Trình Bày Suy Nghĩ Bản Thân Về Lẽ Ghét Thương Trong Xã Hội Hiện Nay
Đoạn thơ trích nói về 'Lẽ ghét thương' có tổng cộng 26 câu, trong đó có 10 câu nói về 'ghét', 16 câu nói về 'thương'. Số lời nói về thương nhiều gấp đôi so với số lời nói về 'ghét'. Tác giả đã nói rõ: 'Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương'. Điều này thể hiện lòng thương dân ở trong lòng ghét của ông Quán. Ông 'ghét', 'ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm' những điều 'tầm phào', 'đa đoan', 'dối trá', 'mê đắm' vì chúng gây ra 'rối dân', 'làm dân nhọc nhằn', 'dân luôn chịu lầm than muôn phần', 'dân đến nỗi sa hầm sẩy hang'. Trong 10 câu thơ này, 4 câu nói về nỗi khổ của dân.
Để diễn đạt sâu sắc về nỗi ghét, tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Trong số 10 câu thơ có 8 từ 'ghét', trong đó có hai câu mở đầu đoạn trích đã có 4 từ. Đặc biệt, câu thứ hai 'ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm' biểu hiện màu sắc, mùi vị và độ sâu của cái ghét. Với cách diễn đạt tăng cấp này, Nguyễn Đình Chiểu cho bạn đọc hiểu rõ lòng căm thù của ông Quán.
Đối lập với nỗi ghét, lòng thương là tình cảm chính nghĩa. Ông Quán đã tỏ bày lòng thương đối với những người hiền nhân, quân tử, những muốn hành đạo, giúp vua, cứu dân nhưng lại gặp bất hạnh, không được vua tin dùng, không gặp thời vận. Trong 16 câu này, ông đã dùng 9 từ 'thương'. Cả hai đoạn ghét và thương đều kết thúc bằng câu 'Xem qua kinh sử mấy lần, nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương'.
Nhờ vào nghệ thuật điệp từ kết hợp với bố cục chặt chẽ, mạch lạc, đoạn thơ đọc lên vừa trang nghiêm vừa thống thiết, tạo nên nét đặc trưng của thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.
Nguyễn Quốc Túy