Lễ Kỳ Yên (hay còn gọi là lễ cầu an) là nghi lễ tế thần Thành hoàng quan trọng nhất trong năm tại các đình thần ở miền Nam Việt Nam. Mỗi năm, các đình làng ở miền Nam tổ chức hai lễ cúng chính: lễ Thượng điền (sau mùa thu hoạch) và lễ Hạ điền (khi bắt đầu gieo trồng). Kỳ Yên có thể được tổ chức cùng với lễ Thượng Điền hoặc Hạ Điền, hoặc cũng có thể được tổ chức riêng biệt tùy theo phong tục địa phương.
Tổng quan về các nghi lễ tế
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có mô tả về lễ Kỳ Yên ở miền Nam trong phần Phong tục chí, cho biết chi tiết về các nghi thức này.
- Cúng Kỳ Yên: tại mỗi làng ở miền Nam, người ta xây dựng một ngôi đình và chọn một ngày tốt để cúng tế. Vào buổi chiều của ngày đó, cả làng, lớn nhỏ, đều tập trung tại đình và ở lại qua đêm, gọi là túc yết. Sáng hôm sau, các học trò và lễ nhân mặc trang phục truyền thống, gióng trống và khua chiêng để thực hiện lễ chính, sau đó là lễ dịch tế vào ngày kế tiếp, gọi là đại đoàn, và kết thúc lễ rồi giải tán...
Ngày nay, lễ Kỳ Yên vẫn được tổ chức trong ba ngày, với nhiều nghi lễ khác nhau. Dù thời gian, thứ tự và chi tiết có thể khác nhau tùy từng địa phương, nhưng thông thường, các lễ được thực hiện theo trình tự cơ bản như sau:
Ngày đầu tiên
Các nghi lễ được tổ chức bao gồm:
Lễ rước Tổ hát bội
Vào dịp lễ đáo lệ Kỳ Yên (Đại lễ Kỳ Yên), từ sáng sớm, Ban tổ chức sẽ cử người mang một khay gỗ chứa trầu, rượu, hương, đèn, tiền lễ; cùng với bốn quân hầu cầm các món thuộc bộ Lỗ bộ và đội nhạc lễ ra tận cổng để rước Tổ hát bội vào đình, sau đó đặt trang trọng tại hậu trường của võ ca.
Lễ Thỉnh Sắc
Sau khi hoàn tất việc an vị Tổ hát bội, một đoàn rước gồm chiêng, trống, cờ, lọng, long đình và đội nhạc lễ cùng đội lân sẽ di chuyển đến nơi cất giữ sắc thần (thường là trong một ngôi nhà vững chắc của một vị chức sắc đáng kính). Tại đây, người phụ trách sẽ thực hiện nghi thức dâng một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế ngắn gọn (hoặc khấn), sau đó đem sắc đặt vào long đình và rước về đình. Tại đình, cần thực hiện thêm nghi thức an vị, bao gồm một tuần hương, ba tuần rượu và một tuần trà, rồi đặt tráp đựng sắc phong lên bàn thờ thần tại chính điện.
Lễ Thỉnh Sắc tại Đình Châu Phú (Châu Đốc, An Giang) được tổ chức vào lúc 7 giờ sáng ngày mùng 10 tháng Năm âm lịch. Lúc này, một đoàn xe trang trí lộng lẫy sẽ tiến về Nhà lớn gần đó để thực hiện lễ thỉnh sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình. Đình Bình Thủy (Châu Phú, An Giang) tổ chức lễ Thỉnh Sắc thần và diễu hành xe hoa quanh cù lao, bắt đầu từ 6 giờ sáng và trở về đình vào lúc 10 giờ sáng.
Lễ Nghinh và tụng kinh cầu an
Ở một số làng, sau khi lễ thỉnh sắc thần Thành hoàng được tổ chức, có thêm Lễ Nghinh, tức là việc đưa kiệu đến các đền miếu trong làng để dâng hương và khấn vái mời các vị thần về đình tham dự lễ. Sau đó, lư hương của các vị thần được đưa trở về đình và đặt lên bàn hương án bên ngoài hoặc bàn Hội đồng ngoại bên trong đình. Tại Đình Châu Phú, sau khi rước sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình, tiếp theo là Lễ Nghinh, trong đó bao gồm việc thỉnh sắc thần Thoại Ngọc Hầu tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc Hầu) và sắc thần của hai vị là Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh.
Có những đình tổ chức lễ này, vốn là nghi thức của Phật giáo được kết hợp vào đình miếu với mục đích cầu xin sự an lành từ chư Phật và thần thánh cho dân làng. Nghi lễ bắt đầu bằng việc thiết lập bàn thờ Phật Quan Âm, sau đó thực hiện niệm hương, tụng kinh Phổ môn và cuối cùng là đọc sớ rồi đốt sớ để gửi đến chư Phật và các thần thánh.
Lễ Thỉnh sanh (Thỉnh sinh)
Lễ Thỉnh sanh phải được tổ chức trước lễ Túc Yết, với mục đích sử dụng con vật tế của lễ Thỉnh sanh làm lễ vật cho lễ Túc Yết sau đó. Con vật tế là một con heo còn sống, toàn thân, bị cột bốn chân và đặt trên một chiếc ghế ngựa trước bàn thờ Hội đồng ngoại. Sau khi heo bị thọc tiết, viên chánh tế dùng chén sạch để hứng máu và một ít lông của con vật, sau đó đặt lên bàn hương án. Chén máu có lông gọi là 'mao huyết'. Theo Sơn Nam, lễ này bắt nguồn từ việc giết người để tế thần; sau đó đã thay thế bằng trâu, bò hoặc heo. Thỉnh sanh (thỉnh là thanh lọc, gạn cho trong sạch; sanh (sinh) có nghĩa là hy sinh. Con vật bị giết để tế được gọi là hy sinh); nói nôm na, lễ thỉnh sanh là lễ giết heo để tế thần. Ngày nay, để tránh cảnh giết chóc trong đình, nhiều nơi chỉ cúng heo còn sống và sau đó mang xuống nhà bếp hoặc cúng heo đã được mổ sẵn. Ở Đình Châu Phú, ví dụ, con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch nhưng chưa nấu chín) được dâng cúng cùng với một chén máu có lông heo (gọi là 'mao huyết'), một mâm xôi, trái cây, trầu cau, muối và gạo. Các lễ vật được đặt trên bàn, con heo trắng được đặt sấp trên một giá gỗ cao.
Sau khi lễ Thỉnh sanh hoàn tất, con heo được luộc chín và đưa trở lại đình để thực hiện lễ Túc Yết.
Lễ Túc yết
Lễ Túc yết là nghi lễ nhằm giới thiệu các chức sắc với thần linh. Theo truyền thống được ghi chép trong sách Gia Định thành thông chí, lễ này diễn ra vào buổi chiều và kéo dài suốt đêm ngày thứ nhất. Trong khi sách Sổ tay hành hương đất phương Nam mô tả rằng, khi đến giờ cử hành lễ, các thành viên của Ban tế tự mặc áo thụng xanh, đội khăn đóng và mang giày, đứng theo hàng hai bên võ ca cùng với ban nhạc lễ, các lễ sinh và đào thài (những người chuyên hát chúc tụng), tất cả sẵn sàng cho nghi lễ. Một lễ sinh sẽ bắt đầu xướng các nghi thức và các hương chức thực hiện tuần tự các nghi lễ như sau:
- Kiểm tra đồ cúng: kiểm tra các phẩm vật tế lễ.
- Dâng hương: thực hiện nghi thức dâng hương.
- Dâng rượu lần một: dâng rượu lần đầu.
- Đọc văn tế chữ Hán: cầu xin thần Thành hoàng phù hộ cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an,...
- Dâng rượu lần hai: dâng rượu lần hai.
- Dâng rượu lần ba: dâng rượu lần ba.
- Dâng trái cây: hiến quả phẩm.
- Dâng bánh: hiến bỉnh.
- Dâng trà: hiến trà.
- Nhận phước: giống như lễ 'thụ tộ' ở miền Bắc, tức là Ban tế tự nhận các lễ vật đã dâng cúng, coi như là lộc của thần ban.
- Đốt văn tế: đốt bản văn tế. Có những đình giữ bản văn này đến khi kết thúc lễ đoàn mới đốt.
Tại Đình Bình Thủy (Châu Phú, An Giang), lễ Túc yết được tổ chức vào trưa ngày 9 tháng 5 âm lịch (ngày đầu tiên của lễ Kỳ Yên) để thuận tiện cho người dân và các ban quý tế ở các đình lân cận đến tham dự. Ở Đình Châu Phú, lễ Túc yết diễn ra vào lúc một giờ đêm ngày 11 tháng Năm âm lịch (ngày thứ hai của đại lễ), Ban quản trị đình tập hợp đông đủ để bắt đầu lễ cúng Túc yết. Ông Chánh tế, cũng là trưởng ban quản trị đình, chịu trách nhiệm chính trong buổi lễ này. Lễ cúng bao gồm một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo và các lễ vật khác do nhân dân dâng cúng.
Khi lễ bắt đầu, ông Chánh tế sẽ dâng hương trước bàn thờ, sau đó các thành viên trong Ban quản trị lần lượt thực hiện nghi lễ. Tiếp theo là phần 'Khởi chinh cổ', với ba hồi trống và ba hồi chiêng mõ. Ban nhạc lễ sử dụng các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi nhạc, thực hiện lễ dâng hương, chuốc rượu và dâng trà. Cuối cùng, bản văn tế (văn chúc) được đặt trước bàn thờ. Người được cử quỳ xuống để 'đọc văn', trong khi ban nhạc lễ phụ họa. Sau khi đọc xong bài văn tế, ông Chánh tế đốt bản văn này cùng với một ít giấy tiền vàng bạc, hoàn tất nghi thức lễ Túc yết.
Ngày thứ hai và thứ ba
Bao gồm các nghi lễ tế sau đây:
Lễ Xây chầu
- Bài chính: Lễ Xây chầu
Theo Sơn Nam, một đặc trưng của đình miếu ở Nam Bộ ngày xưa là mỗi khi tổ chức lễ Kỳ Yên thì phải có các lễ: Xây chầu, Đại bội và hát bội. Lễ Xây chầu được cho là có từ thời vua Gia Long, và thường được tổ chức sau lễ Túc Yết. Lễ Xây chầu có ba loại chính: Xây chầu văn, Xây chầu võ, và Xây chầu bán văn bán võ. Nghi lễ này xuất phát từ quan niệm dịch lý của đạo Nho, bao gồm ba yếu tố: thuận đạo trời (âm dương), an đạo đất (nhu cương) và hòa đạo người (nhân nghĩa). Sự hòa hợp của ba yếu tố này là điều kiện để mọi sự vật phát triển tốt đẹp và thuận lợi.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, lễ Xây chầu có nguồn gốc từ Lễ Đại Bội trong cung đình nhà Nguyễn. Đây là một màn trình diễn quy mô lớn, với nhiều tiết mục liên tiếp nhằm phản ánh quá trình sinh thành vũ trụ và sự phát triển của mọi sự vật. Sơn Nam giải thích rằng, để duy trì thời tiết ổn định và trật tự xã hội, theo quan niệm xưa, cần phải tuân theo quy luật vận hành của Trời Đất, được chỉ dẫn bởi Kinh Dịch với thuyết âm dương, Bát quái và Ngũ hành. Lễ Xây chầu nhằm nhắc nhở về nguyên tắc này.
Diễn biến lễ Xây chầu tại Đình Châu Phú:
Sau khi kết thúc lễ Túc Yết, lễ Xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian võ ca phía trước chính điện. Những người tham gia đều ăn mặc trang trọng, đứng thành hai hàng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian võ ca, các diễn viên của đoàn hát bội đã hóa trang xong, trống mõ đã sẵn sàng. Ông Chánh bái chủ trì lễ dùng một cành dương nhúng vào tô nước và vẩy ra xung quanh, đồng thời đọc lời cầu nguyện:
- Nhất sái thiên thanh. (Trời thêm thanh bình)
- Nhị sái địa linh (Đất thêm tươi tốt)
- Tam sái nhơn trường sanh (Người được sống lâu)
- Tứ sái quỷ diệt hình (Quỷ dữ bị tiêu diệt).
Sau khi đọc xong, ông Chánh bái đánh ba hồi trống và tuyên bố: 'Ca công tiếp giá', ngay lập tức, trống mõ của đoàn hát bội vang lên và chương trình hát bội chính thức bắt đầu. Khi đó, trống chầu được đặt dưới sân khấu, và một quan viên được cử ra cầm chầu đại bội để đánh giá và khen thưởng các nghệ sĩ.
Hát chầu
- Bài chính: Hát chầu
Hát chầu, hay còn gọi là hát bội, có mục đích chính là để cúng thần, và sau đó là để giải trí cho dân làng. Các vở tuồng (thường là 3 hoặc 4 vở) phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc chính thống. Điều này thể hiện rõ trong hầu hết các nghi thức, đặc biệt là phần lễ tôn vương. Nói chung, các vở diễn phải phản ánh ý nghĩa: 'trung thắng nịnh, chính thắng tà' và thường kết thúc bằng màn tôn chân chúa (tôn vương) hoặc tôn soái.
Các tuồng hát bội thường được các đình chọn biểu diễn bao gồm: San Hậu (tôn vương), Phàn Lê Huê (tôn nữ soái), Tiết Nhơn Quý (tôn soái)... Ở Đình Châu Phú, các tuồng thường thấy là: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Trưng Nữ Vương, Lưu Kim Đính, San Hậu...
Lễ Chánh tế hoặc Đàn cả
Lễ Chánh tế, hay còn gọi là Đoàn cả hoặc Đàn cả, được tổ chức vào sáng ngày thứ hai hoặc thứ ba của lễ Kỳ Yên, tùy theo từng địa phương. Theo sách Gia Định thành thông chí, lễ Chánh tế diễn ra vào sáng hôm thứ hai của lễ Kỳ Yên và có nghi thức tương tự như lễ Túc Yết. Lễ này thường được thực hiện vào giờ Tý, theo quan niệm dịch lý là thời điểm 'âm lão, dương khởi', tượng trưng cho sự bắt đầu của những điều tốt đẹp. Điểm khác biệt duy nhất với lễ Túc Yết là câu xướng ở phần ẩm phước: lễ Túc Yết xướng 'Nghinh thần cúc cung bái', còn lễ Chánh tế xướng 'Tạ thần cúc cung bái'. Tại Đình Châu Phú, lễ này được cử hành vào lúc 3 giờ sáng ngày 12 tháng Năm âm lịch, tức sáng sớm ngày thứ ba của lễ. Đình Bình Thủy (Châu Phú, An Giang) tổ chức lễ Chánh tế vào sáng ngày 11 tháng 5 âm lịch, tức ngày thứ ba của lễ Kỳ Yên.
Sơn Nam cho rằng Lễ Đàn Cả là nghi lễ quan trọng nhất. Ông viết: '... trước đó có lễ Túc Yết, là thời điểm mà ban Tế lễ tập hợp, trình diện và diễn tập, có thể so sánh với việc cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chính thức là buổi cúng Tiên. Đình nào có điều kiện hạn chế có thể bỏ qua lễ Túc Yết để tiết kiệm chi phí... Còn về tên gọi, có sự khác biệt giữa Đàn và Đoàn. Trên thiệp mời ở ngôi đền gần chợ Biên Hòa, ghi là Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lập đàn, đàn Nam Giao) có thể là chính xác hơn. Tuy nhiên, dù tên gọi khác nhau, nghi thức về cơ bản vẫn giống nhau.'
Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền
Lễ tế Tiền hiền và Hậu hiền nhằm tưởng nhớ các vị tiền nhân đã góp công trong việc lập làng, xây dựng đình, và các anh hùng liệt sĩ của địa phương. Một số đình tổ chức nghi lễ này ngay sau khi hoàn tất lễ Đoàn cả, trong khi các đình khác có thể dời sang ngày thứ ba. Điểm đặc biệt của lễ này là sử dụng nhạc lễ theo điệu Nhịp Bụa, mang âm hưởng Ai, khác biệt với âm hưởng xuân trong các lễ Túc Yết và Đoàn cả.
Lễ hồi sắc hay nối sắc
Lễ hồi sắc, còn gọi là lễ nối sắc, có nghĩa là đưa sắc thần về vị trí cũ. Nghi thức này được thực hiện giống như khi thỉnh sắc thần. Sau khi lễ hồi sắc hoàn tất, các lư hương của chư thần trong lễ Nghinh cũng được đưa về nơi thờ phụng của họ.
Trong lễ Kỳ Yên, phần lễ thường được coi trọng hơn phần hội. Các đối tượng được cúng lễ bao gồm một tập hợp các thần linh, không chỉ thần Thành hoàng Bổn cảnh. Đây là dịp để cộng đồng dân làng tụ họp, trao đổi, và vui chơi, thắt chặt tình đoàn kết. Hát xướng trong lễ Kỳ Yên không chỉ là văn nghệ đơn thuần mà còn mang nội dung nghi lễ, với các chương trình văn nghệ phải phản ánh đạo lý và kết thúc có hậu. Tiệc tùng trong lễ Kỳ Yên tại đình làng Nam Bộ chủ yếu nhằm mục đích liên hoan và chiêu đãi, không có tục lệ 'chiếu trên, chiếu dưới' hay nhậu nhẹt say sưa như ở các nơi khác.
Lễ Kỳ Yên thu hút đông đảo người dân từ các vùng lân cận, mỗi người đều mang lễ vật và ăn mặc chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, và cuộc sống ấm no. Lễ Kỳ Yên mang hai ý nghĩa quan trọng: tưởng nhớ các vị đã khai phá miền Nam Bộ và cầu mong cuộc sống sung túc. Vì vậy, đây là một hoạt động văn hóa dân gian cần được bảo tồn, duy trì và phát triển.
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Các lễ hội Kỳ Yên sau đây đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của Việt Nam:
- Lễ hội Kỳ Yên tại đình Gia Lộc, phường Trảng Bàng, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
- Đại lễ Kỳ Yên tại Đình Tân Phước Tây, xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
- Lễ hội Kỳ Yên tại đình Bình Thủy, phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, Cần Thơ.
- Lễ hội Kỳ Yên tại đình thần Thoại Ngọc Hầu, thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
- Thành hoàng
- Đình làng Nam Bộ
- Lễ Xây chầu
- Hát chầu
- Tục thờ hổ ở Nam Bộ
Chú giải
- Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
- Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam. NXB Trẻ, 2005.
- Sơn Nam, Đi và Nhớ. NXB Xưa & Nay - NXB Văn hóa Sài Gòn, 2008
- Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, do nhiều tác giả soạn), NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
- Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ. NXB Hà Nội, 1997.
- Sổ tay Hành hương đất phương Nam, chủ biên Huỳnh Ngọc Trảng. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.