Liên bộ Cá đuối | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: 250–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Cá đuối ó phương nam (Dasyatis americana) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Chondrichthyes |
Phân lớp (subclass) | Elasmobranchii |
Liên bộ (superordo) | Batoidea |
Các bộ | |
|
Liên bộ Cá đuối (danh pháp khoa học: Batoidea) là một nhóm cá sụn gồm hơn 500 loài được miêu tả trong 13-19 họ. Tên gọi chung cho các loài cá trong nhóm này là cá đuối, cá ó, cá đao, nhưng thuật ngữ 'cá đuối' thường được sử dụng nhiều nhất, đặc biệt là đối với các loài thuộc bộ Rajiformes, hay còn gọi là 'cá đuối thực sự'. Các loài cá đuối có thể là cá đuối bông, cá đuối thông thường, cá đuối điện, cá giống và cá đao.
Cá đuối có thân tròn, hình dạng giống hình trụ, đuôi dài, đầu nhỏ, thân cá đuối thường có hình lục giác và tròn. Đặc điểm chung của cá đuối là có xương sụn, có hình dạng dẹt, đầu thân mắt bụng tròn và giống như chiếc quạt, đuôi dài ra ngoài như cái cán quạt. Vì thân cá được cấu tạo bằng chất sụn cứng và có tính đàn hồi, thịt của cá rất ngon và giàu dinh dưỡng. Cá đuối cũng là nguyên liệu để chế biến thành nhiều món ăn, thịt của nó dai, sụn của nó sáng bóng màu xanh tươi, phần thịt mềm và trắng, giàu đạm và nhiều chất dinh dưỡng.
Một số loài cá đuối có nọc độc hoặc gai nhọn, ví dụ như cá đuối gai độc. Giống như cá voi mõm sừng và cá mập, một số loài cá đuối sống bằng cách lọc bớt thức ăn, trong khi phần lớn lại là loài ăn thịt. Phần hàm lọc thường được sử dụng làm nguyên liệu cho dược phẩm ở Trung Quốc. Các loài cá đuối thường di chuyển gần bờ và có thể du lịch lên đến 320 km so với bờ biển, đi qua vùng lộ trình của tàu thuyền khi chúng đang săn mồi và trứng cá. Có những con cá đuối khổng lồ có thể nặng tới 7 tạ.
Giải phẫu
Các loài cá đuối là nhóm cá có thân phẳng, giống như cá nhám và cá mập, chủ yếu sống ở ngoài biển, tức là chúng có xương sụn thay vì xương cứng. Hầu hết các loài cá đuối có 5 lỗ huyệt trên cơ thể, gọi là các khe mang, dẫn tới các mang, ngoại trừ họ Hexatrygonidae có 6 lỗ huyệt. Các khe mang của cá đuối nằm dưới vây ngực trên bụng, trong khi ở cá nhám và cá mập thì nằm ở hai bên đầu. Thân cá đuối phần lớn có hình dạng bẹt, giống như một cái đĩa phẳng, với một số ngoại lệ như cá giống và cá đao, trong khi phần lớn các loài cá nhám có thân hình hẹp thon. Nhiều loài cá đuối có vây ngực phát triển thành các cánh rộng và bẹt, giống như cánh. Chúng không có vây hậu môn. Mắt và lỗ thở của chúng nằm trên đỉnh đầu.
Hành vi
Phần lớn các loài cá đuối sống ở đáy biển, phân bố rộng khắp các vùng địa lý khác nhau - một số loài ở gần bờ, một số sống ở độ sâu tối đa khoảng 3.000 mét (9.800 feet). Các loài cá đuối phân bố trên toàn thế giới, từ vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới đến ôn đới và vùng nước lạnh. Chỉ vài loài như cá ó nạng hải (Manta birostris) sống ở ngoài biển lớn, và chỉ vài loài sống trong nước ngọt. Một số loài cá đuối có thể chịu được môi trường nước lợ và cửa sông. Các loài cá đuối sống ở đáy thường lấy nước vào qua các lỗ thở và đẩy nước ra ngoài qua các mang, thay vì lấy nước vào qua miệng như hầu hết các loài cá khác.
Thức ăn
Hầu hết các loài cá đuối có răng phát triển, nặng và hình tròn để nghiền vỏ của các sinh vật sống ở đáy như ốc, trai, sên biển, hàu, động vật giáp xác, và một số loài cá, tùy thuộc vào từng loài. Cá ó nạng hải ăn chủ yếu là động vật phù du.
Phân loại
| |||||||||||||||||||||||||||
Cây phát sinh loài của siêu bộ Batoidea, theo McEachran và Aschliman (2004) |
Hiện nay, phân loại của liên bộ Cá đuối đang được chỉnh sửa một cách tích cực. Cuốn sách Fishes of the World của Nelson năm 2006 công nhận 4 bộ. Nhóm Sclerorhynchoidea thuộc đại Trung sinh được xem là cơ sở hoặc incertae sedis; chúng có các đặc điểm tương tự như bộ Rajiformes nhưng có mõm giống như cá đao.
Bộ Torpediniformes
Cá đuối điện có các cơ quan phát ra điện trong các tấm vây ức. Những cơ quan này được dùng để phát ra các tia điện nhằm làm tê liệt con mồi và tự vệ. Các tia điện này đủ mạnh để làm người bất tỉnh, và người Hy Lạp cổ đại cũng như La Mã cổ đại đã sử dụng các loài cá này để điều trị chứng đau đầu.
- Họ Narcinidae
- Họ Narkidae (có thể gộp vào họ Narcinidae)
- Họ Hypnidae (có thể gộp vào họ Torpedinidae)
- Họ Torpedinidae (Họ Cá đuối điện)
Bộ Pristiformes
Cá đao có hình dáng giống cá mập, có đuôi để bơi và các vây ức nhỏ hơn so với phần lớn các loài cá đuối khác. Các vây ức của chúng gắn với phần trên của mang giống như các loài cá đuối khác, làm cho chúng có bề ngoài với đầu rộng. Chúng có mõm dài, phẳng với một hàng răng ở cả hai hàm. Mõm dài của chúng có thể lên đến 1,8 mét (6 ft), và rộng 30 cm (1 ft), được sử dụng để cắt và xé các con cá nhỏ cũng như để săn mồi trong bùn để tìm kiếm các sinh vật ẩn nấp trong đó. Cá đao cũng có thể tiến vào các sông và hồ nước ngọt. Một vài loài có thể dài tới 6 mét (20 ft).
- Họ Pristidae (Họ Cá đao (cá sụn))
Bộ Rajiformes
- Họ Anacanthobatidae
- Họ Arhynchobatidae
- Họ Rajidae (Họ Cá đuối thường)
- Họ Rhinobatidae (Họ Cá đuối dài)
- Họ Rhinidae (Họ Cá giống, có thể gộp vào họ Rhinobatidae)
- Họ Rhynchobatidae (Họ Cá đuối lưỡi cày, có thể gộp vào họ Rhinobatidae)
Bộ Myliobatiformes
- Họ Dasyatidae (Họ Cá đuối bông)
- Họ Gymnuridae (Họ Cá đuối bướm)
- Họ Hexatrygonidae (Họ Cá đuối sáu mang)
- Họ Myliobatidae (họ Cá đuối ó)
- Họ Plesiobatidae (Họ Cá đuối biển sâu)
- Họ Potamotrygonidae (Họ Cá đuối sông)
- Họ Urolophidae (Họ Cá đuối tròn)
- Họ Urotrygonidae (Họ Cá đuối tròn Mỹ)
- Họ Platyrhinidae (Họ Cá đuối đĩa, có thể thuộc Rajiformes và gộp trong Rhinobatidae)
- Họ Zanobatidae (Họ Cá đuối quạt, có thể thuộc Rajiformes và gộp trong Rhinobatidae)