padmasambhāva पद्मसम्भव | |
---|---|
Hoạt động tôn giáo | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Trường phái | Phật giáo Tây Tạng |
Tông phái | Nyingma |
Đệ tử | Yeshe Tsog-yel |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 717 |
Mất | 762 |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | tì-kheo |
Quốc tịch | Oddiyana |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Padmasambhava (Hán Việt: Liên Hoa Sinh (蓮華生), sa. padmasambhava, padmakāra, bo. pad ma sam bhava པད་མ་སམ་བྷ་ཝ་, pad ma `byung gnas པད་མ་འབྱུང་གནས་), là một Đại sư Ấn Độ, đồng thời với vua Tây Tạng Trisong Detsen (755-797). Ngài truyền bá Phật giáo sang Tây Tạng và sáng lập tông Ninh-mã, một trong bốn tông phái lớn của Tây Tạng, được gọi là 'Phật thứ hai' bởi các đệ tử. Ngài thường sử dụng thần thông, chế ngự ma quái và thiên tai. Cách tu tập của Ngài rất đa dạng, từ sử dụng đao truỷ thủ đến thiền định theo hệ thống Đại cứu cánh. Ngài thuộc dòng các Đại thành tựu (sa. mahāsiddha), để lại nhiều truyện thần thoại và ở vùng Hi-mã-lạp sơn, người ta tôn thờ gọi Ngài là 'Đạo sư quý báu' (Quỹ Phạm Sư Bảo 軌范師寶, Sư Tôn Bảo 師尊寶, bo. guru rinpoche གུ་རུ་རིན་པོ་ཆེ་).
Tương truyền rằng, Liên Hoa Sinh sinh ra từ một hoa sen ở Tây Bắc Kashmir, sớm thông suốt tất cả kinh sách, đặc biệt là Mật giáo (sa. tantra). Vào thế kỷ thứ 8, Ngài đến Tây Tạng, một vương quốc còn chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo tự nhiên. Ngài đến đây chế ngự ma quỷ, thiên tai và ảnh hưởng của giáo phái Bön. Ngài cũng xây dựng tu viện Tang-duyên năm 775 và kết thúc hoạt động tại Tây Tạng. Nhiều tài liệu cho rằng Ngài đã hoằng hóa ở Tây Tạng lâu hơn, truyền giáo cho 25 đệ tử, trong đó có nhà vua Tây Tạng, với giáo thuyết quan trọng nhất là 'Tám tuyên giáo'. Ngoài ra, Ngài để lại nhiều bài dạy được giấu trong rừng núi (bo. gter ma), chỉ được khám phá ra vào thời điểm nhất định. Một trong những bài dạy đó là bộ Tử thư. Đệ tử quan trọng và là người viết lại tiểu sử của Ngài là bà Yeshe Tsog-yel.
Giáo lý
Ngài có nhiều bài giảng hướng dẫn đệ tử tu tập theo con đường ngắn nhất, trực tiếp đến Giác ngộ. Những lời khuyên thường tập trung vào sáu điểm cụ thể sau:
- Đọc nhiều kinh sách, lắng nghe các Đại sư chỉ dạy để thấu hiểu và tự kiểm chứng hiệu quả;
- Chọn một học thuyết và tập trung vào nó, bỏ qua các thuyết khác như con diều hâu săn mồi chỉ chọn một mục tiêu;
- Sống khiêm nhường, giản dị, không mưu cầu danh vọng, quyền lực. Tâm thức phải vươn cao vượt qua mọi danh hiệu thế gian;
- Giữ lòng Xả (sa. upekṣā) với tất cả. Ăn uống đơn giản, không phân biệt. Chấp nhận mọi hoàn cảnh, không cố đạt hay né tránh điều gì. Không hối tiếc hay tự hào về những gì đã làm (xem Bát phong).
- Với tâm vô tư, lắng nghe và quan sát mọi hành động, lời nói của người khác. Nghĩ rằng nhân gian là như thế, mọi người đều có cách sống riêng. Quan sát thế gian như từ đỉnh núi nhìn xuống;
- Giai đoạn này không thể diễn tả bằng lời. Nó tương ứng với trực giác về tính Không (sa. śūnyatā).
Phái Ninh-mã coi ngày 10 mỗi tháng là ngày vía của Liên Hoa Sinh và mỗi tháng có một ý nghĩa khác nhau. Ngày 10 tháng Giêng là ngày xuất gia và quán tử thi, ngày 10 tháng 2 là ngày thụ giới, ngày 10 tháng 3 là ngày chuyển hóa lửa thành nước... Bài dạy cầu Liên Hoa Sinh được ghi thành 7 dòng như sau:
|
Xứ Ogyen cõi thiêng Tây Bắc
Đản sinh trong nhị đóa hoa sen Thành tựu diệu kỳ đã nên Liên Hoa Sinh ấy là tên gọi Ngài Không Hành Mẫu Thường hằng vi nhiễu Con Theo Thầy từng bước chân tu Xin Ngài rộng mở lòng từ, giáng lâm ban phúc gia trì trong con |
---|
Hóa thân
Sự xuất hiện của đức Kim Cang Thượng Sư đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tiên đoán trong nhiều kinh điển. Đức Phật cũng dạy rằng đức Liên Hoa Sinh chính là Đức Phật A Di Đà trong hình tướng loài người.
- Guru Padma Jungney: Sinh Ra Từ Hoa Sen, mặt màu xanh, 3 mắt, đội vương miện ngũ trí (hoặc 5 đầu lâu), tay cầm Chày Kim Cang và Chuông Kim Cang,
- Guru Shakya Sengye: Sư Tử của dòng họ Thích Ca, có khuôn mặt Phật, tóc kết lọn, mặc áo tăng vàng, tay cầm bình bát, được kính ngưỡng là hóa thân của Phật Thích Ca Mâu Ni
- Guru Nyima Oezer: Mặt màu vàng, mặc áo vàng, râu xanh, tay cầm pháp khí biểu tượng ánh sáng mặt trời
- Guru Loden Chogse: mặt đỏ, tóc búi, đội vương miện, mặc áo đỏ, tay cầm trống và bình bảo
- Guru Padmasambhava: Mặt trắng, áo tăng, mũ thiền trí,
- Guru Pema Gyalpo: Liên Hoa Vương, mặt trắng, đội vương miện bá vương, tay cầm trống và chuông kim cương
- Guru Sengye Drathok: mặt xanh, 3 mắt uy mãnh, áo xanh, tay cầm Chày Kim Cang Phổ Ba
- Guru Dorje Drolo
Chú Tinh Túy Đạo Sư Thành Tựu
Thánh địa
- Hồ Rewalsar (Tso Pema): tại bang Himachal Pradesh, nơi Ngài sinh ra từ một đóa hoa sen,
- Động Lang - Le - So (Asura): trên núi Parphing, tây nam Thủ đô Kathmandu của Nepal, nơi Ngài và công chúa Shakyadevi thực hành bản tôn Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), trên cửa hang có dấu tay Ngài in vào vách đá.
- Tu Viện Chiu Gompa: ở vùng Ngân sơn (Kailash), gần hồ thiêng Manasarovar, có hang động nơi Ngài thiền định 7 năm cuối cùng.
- Tự Viện Samye: tại Tây Tạng, là ngôi chùa đầu tiên, xây dựng năm 787 sau CN, thiết kế như một Mandala, Ngài Liên Hoa Sinh và Ngài Tịch Hộ đã xây dựng tự viện này để thiết lập Phật giáo tại Tây Tạng.
- Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển Biên Tu Ủy Viên Hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Bồ Tát |
---|
Phật giáo Tây Tạng |
---|