Cá nục | |
---|---|
Một con cá nục | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Perciformes |
Họ (familia) | Carangidae |
Chi (genus) | Decapterus Bleeker, 1851 |
Loài điển hình | |
Caranx kurra G. Cuvier, 1833 | |
Các loài | |
Decapterus akaadsi | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Loài Cá nục (danh pháp khoa học: Decapterus) là một loài cá biển thuộc họ Cá khế (Carangidae). Đây là nhóm cá có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, được khai thác phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới để làm thực phẩm hoặc cá mồi.
Đặc điểm sinh học của cá nục
Cá nục có thân hình tiết diện ngang gần tròn, hơi dẹt bên, kích thước nhỏ, có khi dài đến 40 cm. Cá có vây phụ nằm sau vây lưng thứ hai và vây hậu môn. Mùa sinh sản của cá nục từ tháng 2 đến tháng 5, trung bình mỗi con cái đẻ từ 25 đến 150 nghìn trứng. Thức ăn chính của cá nục là tôm và động vật không xương sống.
Tại Việt Nam, vào tháng 7 khi miền Trung có gió nam, cá nục bắt đầu vào mùa. Chúng trồi lên tầng mặt ở vùng biển cạn, nơi có nhiều bùn và phiêu sinh vật để đẻ và kiếm ăn. Khi biển động, chúng lặn xuống tầng sâu.
Các loài cá nục
Chi Cá nục này bao gồm 12 loài sau:
- Decapterus akaadsi T. Abe, 1958
- Decapterus koheru (Hector, 1875)
- Decapterus kurroides Bleeker, 1855: Cá nục đỏ, cá nục đỏ đuôi, cá nục giời
- Decapterus macarellus (G. Cuvier, 1833)
- Decapterus macrosoma Bleeker, 1851: Cá nục thuôn, cá nục chuối
- Decapterus maruadsi (Temminck & Schlegel, 1843): Cá nục sò, cá nục gai
- Decapterus muroadsi (Temminck & Schlegel, 1844)
- Decapterus punctatus (G. Cuvier, 1829)
- Decapterus russelli (Rüppell, 1830)
- Decapterus scombrinus (Valenciennes, 1846)
- Decapterus smithvanizi Seishi Kimura, Katahira & Kuriiwa, đang công bố
- Decapterus tabl Berry, 1968
Một số loài khác
Cá nục sò
Cá nục sò hay còn gọi là cá nục sồ, tên khoa học là Decapterus maruadsi (Tên tiếng Anh: Round scad), phân bố tại Vịnh Bắc Bộ, biển miền Trung và Đông, Tây Nam Bộ. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng được khai thác quanh năm với sản lượng cao, kích thước từ 90-200 mm. Phương thức khai thác chủ yếu gồm lưới vây, lưới kéo, vó và mành. Sau khi thu hoạch, cá nục được chế biến thành các sản phẩm đông lạnh, chả cá, cá khô, đồ hộp và các sản phẩm phối chế khác, làm mắm.
Cá nục dài thon
Loài cá này có tên khoa học là Decapterus russelli (trước đây là Decapterus lajang), phân bố ở Vịnh Bắc Bộ, vùng biển miền Trung và Đông, Tây Nam Bộ. Cá nục dài thon là nguồn tài nguyên khai thác quan trọng của ngư dân với mùa vụ quanh năm. Sản lượng khai thác cao, kích cỡ cá để khai thác là từ 100–230 mm. Hình thức khai thác chủ yếu là lưới vây, lưới kéo, vó, mành. Sau khi khai thác, cá nục được chế biến thành các dạng sản phẩm đông lạnh tươi, phi lê, chả cá, cá khô, đóng hộp, các sản phẩm phối chế khác, làm mắm.
Hoạt động khai thác ở Việt Nam
Cá nục là nguồn thu nhập cho một số ngư dân ở vùng ven biển Việt Nam. Đặc biệt là ngư dân ba xã huyện đảo Lý Sơn và xã Bình Châu, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi. Ở đây, trung bình mỗi tàu, thuyền có công suất trên 45 mã lực mỗi đêm đánh bắt tại ngư trường Lý Sơn được 3 đến 5 tấn cá nục.
Mỗi ngày thương lái thu mua khoảng 100 tấn cá nục, đôi khi có ngày thu mua được 300 đến 400 tấn. Với giá thu mua 1 tấn cá nục khoảng 15 triệu đồng, mỗi ngày đoàn tàu đánh cá nục mang về trung bình từ 1,3 đến 1,5 tỷ đồng.
Cá nục với thịt ngon và giàu dinh dưỡng được nhiều người yêu thích. Tại Việt Nam, cá nục sò (D. maruadsi) sống ở tầng mặt và cá nục đỏ (D. kurroides), cùng cá nục thuôn (D. russelli) là những loài có giá trị kinh tế cao.
Những món ăn từ cá nục
Cá nục là nguyên liệu chính của nhiều món ăn ngon ở Việt Nam như: Cháo cá nục dừa xiêm, cá nục nướng mỡ chài, salat cá nục rau diếp, cá nục kho lá chè, cá nục kho me, cá nục kho cà ...