Chúng được biết đến như một loài động vật gặm nhấm có kích thước khủng khiếp nhất từng tồn tại trên Trái Đất, to gần bằng kích thước của một con bò tót
Vào những năm 1960, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện hóa thạch của loài gặm nhấm trong hệ tầng San Jose của Uruguay ở Nam Mỹ. Chúng có những chiếc răng tương đồng với loài chuột lang nước - loài gặm nhấm lớn nhất thế giới hiện nay.
Năm 1966, các nhà cổ sinh vật học JC Francis và A. Mones đã đặt tên cho loài gặm nhấm thời tiền sử này là Josephoartigasia, theo tên nhà lãnh đạo phong trào độc lập của Uruguay, Jose Gervasio Articas (1764-1850). Tên khoa học đầy đủ của chúng là Josephoartigasia magna (Josephoartigasia monesi).

Jose Gervasio Articas.
Năm 1987, trong hệ tầng San Jose, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện một hóa thạch hộp sọ gần như hoàn chỉnh. Hóa thạch này lớn đến đáng kinh ngạc, tuy nhiên không có nghiên cứu khoa học hoặc báo cáo nào được thực hiện trong 20 năm tiếp theo.

Năm 2007, các nhà nghiên cứu từ Bảo tàng Lịch sử và Nhân loại học Uruguay đã mô tả và phân tích hộp sọ này, xác định chúng thuộc loài Josephoartigasia monesi và có thể được phân loại trong chi Capybara (chuột lang nước). Sự công bố của nghiên cứu này đã gây bất ngờ lớn trên toàn cầu khi cho thấy kích thước của chúng thực sự khổng lồ, làm cho chúng trở thành loài động vật gặm nhấm lớn nhất từng tồn tại trên Trái Đất.

Hộp sọ hóa thạch của một con Josephoartigasia monesi.
Hiện nay, loài gặm nhấm lớn nhất thế giới là Chuột lang nước capybara, chúng phân bố từ Paraguay, Argentina, Brazil, Bolivia, Colombia, Venezuela đến miền bắc Nam Mỹ. So với các loài gặm nhấm khác, chúng có kích thước rất lớn, với chiều dài cơ thể lên đến 1,3 mét, chiều cao tới vai 0,5 mét và trọng lượng từ 27 đến 70 kg.

Chuột lang nước capybara.
Mặc dù capybara là loài gặm nhấm có kích thước rất lớn, so với loài Josephoartigasia monesi, chúng chỉ như 'chíp hôi'. Dựa vào các mẫu hóa thạch, Josephoartigasia monesi có chiều dài cơ thể lên tới 3 mét, cao 1,5 mét tính tới vai và nặng khoảng 1 tấn, to gần bằng một con bò tót!

So sánh hộp sọ của Josephoartigasia monesi với kích thước trung bình của loài gặm nhấm hiện đại.

So sánh kích thước của một con Josephoartigasia monesi với kích thước của một người trưởng thành.

Ngoại hình của Josephoartigasia monesi tương tự như Chuột lang nước capybara, chúng có lớp lông dày bao phủ toàn bộ cơ thể. Đầu chúng dài 0,53 mét, mũi to hướng về phía trước với đôi mắt gần với đỉnh đầu và đôi tai tròn nhỏ luôn hướng về phía sau.
Chúng sở hữu những chiếc răng cửa to và dài ở cả hàm trên và dưới, có thể đạt chiều dài tới 30 cm. Tương tự như các loài gặm nhấm khác, răng của chúng liên tục mọc suốt đời nên chúng cần thường xuyên mài mòn để giữ chiều dài phù hợp.

Những con Josephoartigasia monesi cổ đại có cổ ngắn và thân hình mập mạp, chứa nhiều mô mỡ. Chúng di chuyển bằng bốn chân và có khả năng bơi tốt, giống như bò rừng hiện đại. Chúng có bốn ngón ở bàn chân trước và ba ngón ở bàn chân sau, liên kết bởi màng nhẹ giúp chúng bơi lội. Thường không sở hữu đuôi dài như các loài gặm nhấm khác, và đôi khi có đuôi ngắn hơn so với tỷ lệ cơ thể.
Các nhà cổ sinh vật học giả định rằng Josephoartigasia là loài có tính xã hội, thường sống thành nhóm từ 10 đến 20 cá thể và giao tiếp bằng nhiều âm thanh đặc biệt như tiếng la hét, sủa, huýt sao, tiếng rít để truyền tải thông tin. Do đó, chúng là một phần quan trọng trong cộng đồng tự nhiên.


Ngoài ra, loài chuột cổ đại này còn có khứu giác tốt và thường sử dụng mùi riêng để xác định lãnh thổ, thu hút con cái trong mùa giao phối hoặc giao tiếp với thành viên khác trong bầy.
Những con Josephoartigasia monesi đã sống ở Nam Mỹ từ thời kỳ Pliocene đến đầu Pleistocene, khoảng từ 4 đến 2 triệu năm trước. Lúc đó, Nam Mỹ là một thế giới hoang dã với nhiều loài động vật to lớn thời tiền sử đã tuyệt chủng.
Trong trường hợp đối mặt với nguy hiểm, những con chuột lớn này sử dụng răng cửa làm vũ khí, có lực cắn lên đến 400 kg, tương đương với lực cắn của một con hổ.


Chúng thường sống ở gần các khu vực nước sông và hồ và có khả năng bơi rất giỏi. Thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật nước và đôi khi chúng ăn lá và trái cây.
Josephoartigasia monesi có thân hình to lớn như bò tót, sức mạnh từ đó giúp chúng sinh tồn trong môi trường hoang dã. Tuy nhiên, khi khí hậu Nam Mỹ trở nên khô cằn, không gian sống phù hợp của chúng dần thu hẹp, khiến chúng phải tiến hóa để thu nhỏ thân hình và thích nghi với môi trường. Khi không còn khả năng thích nghi, chúng đối diện với nguy cơ tuyệt chủng.

Dù đã giảm kích thước nhiều lần, nhưng những con Chuột lang nước vẫn giữ được ngoại hình tương đối giống với Josephoartigasia monesi ban đầu.