




Luận Ngữ (論語) là một cuốn sách do Khổng Tử (551 TCN - 479 TCN) và những đệ tử của mình biên soạn.
Luận Ngữ là một cuốn trong bốn cuốn sách gọi là Tứ Thư. Ngoài Luận Ngữ, Tứ Thư còn bao gồm Đại Học, Mạnh tử và Trung Dung. Luận Ngữ được viết từ đời Tiền Hán (206 TCN – 220) tới đời Hậu Hán (947-951), và là một chủ đề học vấn chủ yếu trong thi triều đình Trung Hoa Khoa bảng (hay là 'Khoa Cử').
Trong Luận Ngữ có bài do môn sinh của Khổng tử chép, như môn sinh nghe giảng điều gì thì chép ngay lại cho khỏi quên, có bài do hạng môn sinh tái truyền (môn sinh của môn sinh chép).
Có thể rằng sau khi Khổng tử mất, các môn sinh thu thập lời dạy của thầy, truyền cho nhau, một số người chép lại dùng để dạy học, khi chết, thì học trò của họ lại cả lời của Khổng tử lẫn lời của họ. Theo Liễu Tôn Nguyên đời Đường thì có lẽ là một học trò của Tăng Sâm là người cuối cùng chép Luận ngữ và xuất hiện sớm cũng vào khoảng bảy tám chục năm sau Khổng tử mất.
Luận ngữ đã được phổ biến từ thời Tiên Tần.
Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau.
Nội dung
- Học Nhi
- Vi Chính
- Bát Dật
- Lý Nhân
- Công Dã Tràng
- Ung Dã
- Thuật Nhi
- Thái Bá
- Tử Hãn
- Hương Đảng
- Tiên Tiến
- Nhan Uyên
- Tử Lộ
- Hiến Vấn
- Vệ Linh công
- Quý thị
- Dương hóa
- Vi tử
- Tử Trương
- Nghiêu viết
Khái niệm chủ yếu
- 'Tam tư hậu hành' (Ba nghĩ, sau làm) - Sách Luận Ngữ, chương Công Dã (公冶) có viết: Quý Văn Tử tam tư nhi hậu hành. Tử văn chi viết: 'Tái, tư khả hĩ!' (季文子三思而後行。子聞之曰「再、斯可矣」), nghĩa là Quý Văn Tử làm việc gì cũng nghĩ đi xét lại ba lần rồi mới làm. Nghe ấy, đức Khổng Tử nói: 'Hai lần, ấy đã khá vậy'.
- 'Tứ hải huynh đệ' (Bốn biển, anh em) - Sách Luận Ngữ, chương Nhan Uyên (顏淵) có viết: Quân tử kính nhi vô thất, dữ nhân cung nhi hữu lễ; tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã (君子敬而無失、與人恭而有禮、四海之內、皆兄弟也), nghĩa là 'Quân tử kính mà không để thoát, đối xử người thì khiêm cung mà không vô lễ, trong bốn biển đều là anh em một nhà cả'.
- 'Trí giả lạc thủy' (Người khôn thích nước) - Sách Luận Ngữ, chương Ung Dã (雍也) có viết: Trí giả lạc thủy (知者樂水), nghĩa là 'Người có nhân ái thì ưa thích và biến báo như nước'.
- 'Thiết vấn cận tư' (Hỏi thiết tha, nghĩ về sự gần) - Sách Luận Ngữ, chương Tử Trương (子張) có viết: Thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kỳ trung hỹ (切問而近思、仁在其中矣), nghĩa là 'Hỏi han thiết tha, suy nghĩ có dính dấp, Đức Nhân nằm ở đó'.
Nhận định
Đọc cuốn sách này, người ta có thể hiểu về phẩm chất và tính cách của Khổng Tử, đặc biệt là trong việc giáo dục. Ông là người rất thông cảm và biết cách giảng dạy phù hợp với từng học trò, phù hợp với từng hoàn cảnh của từng người. Có khi, ông trả lời cùng một câu hỏi nhưng lại có những cách trả lời khác nhau cho từng người.
Trình Y Xuyên, một nhà Nho thời nhà Tống, đã nói:
- 'Có những người sau khi đọc xong Luận Ngữ không thấy gì, có người lại cảm thấy thích thú với một vài câu, và cũng có người sau khi đọc xong lại rất hào hứng đến mức không thể ngồi yên. Vì thế, khi đọc Luận Ngữ, phải đọc từ từ, suy nghĩ kỹ, và càng suy nghĩ càng khám phá ra nhiều điều hay.'
Trình Y Xuyên còn nói:
- 'Ai đọc xong Luận Ngữ mà vẫn giữ nguyên tính cách như trước khi chưa đọc thì chứng tỏ người đó chưa thực sự hiểu được sách Luận Ngữ. Tóm lại, sách Luận Ngữ dạy chúng ta cách sống đạo đức một cách thực tế, mô tả những phẩm chất tốt đẹp của Khổng Tử để làm gương cho thế hệ sau.'