Lưỡng Quảng (chữ Hán: 兩廣; bính âm: Liǎngguǎng; Phiên âm tiếng Quảng: loeng gwong; Phiên âm Bạch thoại: lióng-kńg) hay Nhị Quảng, là tên một vùng đất nằm ở phía nam Trung Quốc, tương ứng hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay.
Theo quan điểm của một bộ phận người Việt Nam, Lưỡng Quảng là lãnh thổ cổ xưa của họ. Vào cuối thế kỷ 18, vị vua Việt Nam Quang Trung đã công khai yêu sách chủ quyền lãnh thổ lịch sử này với nhà Thanh nhưng bị khước từ. Đại diện nhà Thanh là Tổng đốc Lưỡng Quảng lúc đó đã trả lời rằng biên giới đã định rõ. Tài liệu khác chỉ ra rằng, hoàng đế nhà Thanh là Càn Long đã đồng ý hôn nhân của Quang Trung với một công chúa nhà Thanh và chấp nhận nhượng Lưỡng Quảng nhưng cái chết của vua Quang Trung khiến hôn nhân lẫn việc nhượng lại lãnh thổ bị hủy bỏ.
Địa lý - dân cư - văn hóa
Lưỡng Quảng là tên của một vùng đất cổ Việt, bao gồm tỉnh Quảng Đông, Khu tự trị Choang Quảng Tây và tỉnh Hải Nam, Đặc khu hành chính Hồng Kông và Đặc khu hành chính Ma Cao của Trung Quốc.
Lưỡng Quảng là vùng đất nằm trong phạm vi của dân tộc Bách Việt, khác biệt hoàn toàn so với Trung Quốc. Từ thời Tần và Hán trở đi, các di dân từ phương Bắc di chuyển xuống phương Nam, hòa nhập với dân tộc Bách Việt. Các di chỉ khảo cổ chứng tỏ sự khác biệt về dân cư. Người Bách Việt sử dụng các công cụ lao động như rìu vai kép, dao gọt, kiếm chuôi dẹt,... Trồng trọt canh tác lúa nước, tín ngưỡng phồn thực, sáng tạo và sử dụng trống đồng,... Sau khi trở thành lãnh thổ Trung Quốc, quá trình Hán hóa mạnh mẽ ở khu vực này diễn ra.
Lịch sử
Lưỡng Quảng là một phần của vùng đất Bách Việt rộng lớn. Nó từng là lãnh thổ của nước Nam Cương, một đất nước cổ do Thục Phán lãnh đạo. Sau cuộc chiến với nhà Tần và Văn Lang, Thục Phán thành lập nước Âu Lạc, bao gồm cả lãnh thổ của Văn Lang cũ và 9 xứ của nước Nam Cương. Năm 207 TCN, sau khi đánh bại An Dương Vương, Triệu Vũ Đế sáp nhập Âu Lạc vào Quận Nam Hải để thành lập nước Nam Việt. Năm 111 TCN, Nhà Triệu suy yếu, toàn bộ lãnh thổ Nam Việt thuộc về Nhà Hán. Lúc này, đất Lưỡng Quảng thuộc quận Giao Chỉ.
Nhà Hán sụp đổ vào năm 220, trong thời Tam quốc, cả lãnh thổ Âu Lạc cũ và Lưỡng Quảng thuộc Đông Ngô. Năm 226, nhà Ngô tách các quận Hợp Phố (thuộc Quảng Châu, Trung Quốc), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam để lập Giao Châu. Năm 263, Lã Hưng, một tướng của Đông Ngô, nổi dậy đánh bại Thái thú Giao Châu, sáp nhập đất Giao Châu vào Tây Tấn. Năm 264, Ngô Vương Tôn chia Giao Châu (bao gồm đất Âu Lạc cũ và một phần đất Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc) thành Quảng Châu (đất Lưỡng Quảng) và Giao Châu. Giao Châu sau này thu hẹp trong phạm vi lãnh thổ nước Âu Lạc cũ, thành Long Biên (Từ Sơn, Bắc Ninh) là châu lị.
Từ năm 280, Tây Tấn tiêu diệt hoàn toàn Đông Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về Tây Tấn. Nhà Tây Tấn bổ nhiệm quan Thứ sử cai trị Giao Châu và quan Thái thú ở bảy quận của Giao Châu gồm: Hợp Phố, Vũ Bình, Tân Xương, Giao Châu, Cửu Đức, Nhật Nam (lúc này Nhật Nam chỉ còn đất từ Quảng Bình đến Quảng Trị). Nhà Tấn mở rộng địa giới quận Cửu Đức đến Hoành Sơn, thành lập huyện Nam Lăng và huyện Đô Giao tương ứng với các huyện Nghi Xuân, Hương Sơn, Hương Khê, Thạch Hà ngày nay. Sau khi nhà Tấn sụp đổ, Trung Quốc bắt đầu cục diện Nam - Bắc triều. Giao Châu trở thành một phần của Nam triều, liên tục bị các triều Tống, Tề, Lương, Trần thống trị. Vào đầu thế kỷ thứ V, Giao Châu rơi vào tay nhà Tống; năm 470, Hợp Phố bị tách ra và sáp nhập vào nội địa Trung Quốc, phần còn lại của Giao Châu thuộc vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, gọi là Cửu Đức; năm 479, nhà Tề kế vị nhà Tống; năm 505, Giao Châu thuộc nhà Lương; năm 523, nhà Lương thành lập Ái Châu ở Thanh Hoá, đổi tên Cửu Đức thành Đức Châu và thành lập thêm hai huyện mới là Lợi Châu và Minh Châu; năm 535, thành lập châu Hoàng Châu (Quảng Ninh).
Năm 618, nhà Tuỳ sụp đổ, nhà Đường tiếp quản và trị vì Trung Hoa. Thái thú Giao Châu của nhà Tuỳ thần phục nhà Đường, từ đó đến năm 904, Giao Châu thuộc sự cai trị của nhà Đường. Nhà Đường tái thiết các quận thành châu như cũ. Năm 622, Giao Châu được đổi tên thành An Nam Tổng Quản Phủ. Năm 679, đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ, chia thành 12 châu:
- - Bao gồm 3 châu: Giao Châu, Phong Châu, Trường Châu (Bắc Bộ Việt Nam ngày nay);
- - Bao gồm 4 châu: Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga Châu, Vũ An Châu (Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay);
- - Bao gồm 4 châu: Ái Châu, Phúc Lộc Châu, Diễn Châu, Hoan Châu (Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay);
- - Châu Lục (nằm trên đất Trung Quốc và vùng Quảng Ninh).
Năm 757, do tình hình rối loạn ở Trung Quốc, nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng làm hư hại các châu huyện, nhà Đường đã đổi An Nam Đô Hộ Phủ thành Trấn Nam Đô Hộ Phủ, đến năm 768 lại đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ như cũ. Năm 863, nhà Đường bãi bỏ phủ đô hộ. Năm 866, sau khi đánh bại được quân Nam Chiếu và chiếm lại thành Tống Bình, phủ đô hộ mới được đặt lại tại đây.
Năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo người dân vùng cổ Âu Lạc đánh bại quân Nam Hán. Mặc dù giải phóng một vùng đất rộng lớn, nhưng Ngô Quyền không đưa quân tiến lên phía bắc nên không thể giải phóng được Lưỡng Quảng. Vì vậy, từ đó về sau, Lưỡng Quảng không bao giờ trở thành một phần của Đại Việt độc lập.
Sau khi chiến thắng quân Thanh vào năm 1789, vua Quang Trung đã chỉ định một sứ giả sang Bắc Kinh vào năm 1792. Tướng Vũ Văn Dũng là chánh sứ cùng với hai người đồng sự Ngô Thời Nhiệm và Phan Huy Ích, họ sử dụng Kinh Thư và Sử sách Trung Hoa để yêu cầu trả lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, nơi mà tổ tiên từng chiếm đóng, và cầu hôn một công chúa Mãn Thanh cho vua Quang Trung. Tuy nhiên, kế hoạch này không thành, khi vua Quang Trung đột ngột qua đời.
- Bách Việt
- Tổng thống Lưỡng Quảng
- Nhà Triệu
- Nam Việt
- Triệu Đà
- Quảng Châu (tên địa danh cổ)
- Phiên Ngung (thủ đô cổ)
- Nùng Trí Cao
- Chiến tranh Hán-Nam Việt
- Âu Lạc
- Tĩnh Hải quân
- Thời kỳ tự chủ Việt Nam
- Vấn đề chính thống của nhà Triệu
- Đền vua Nam Việt
- Cung điện Phiên Ngung
- Di tích đập nước bằng gỗ thời Triệu
- Bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế
- Mộ số 1 La Bạc Loan
Sách
- Nguyễn Trãi, Mai Quốc Liên (1999). Nguyễn Trãi toàn tập, tân biên, tập 1. Trung tâm nghiên cứu quốc học & Nhà xuất bản Văn học.
- Phạm Văn Sơn (1959). Việt sử tân biên, tập 3-4. Nhà xuất bản Văn hóa Á châu.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (1997). Đại Nam chính biên liệt truyện, Tập 2. Nhà xuất bản Thuận Hóa.
- Trần Mạnh Thường, Nguyễn Minh Tiến (2005). Việt Nam - Văn hóa và du lịch. Nhà xuất bản Thông tấn.
- Vĩnh Cao (2001). Từ Lâm Hán Việt từ điển. Nhà xuất bản Thuận Hóa.