Braithwaite năm 2021 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Martin Christensen Braithwaite | ||
Ngày sinh | 5 tháng 6, 1991 (33 tuổi) | ||
Nơi sinh | Esbjerg, Đan Mạch | ||
Chiều cao | 1,8 m (5 ft 11 in) | ||
Vị trí |
Tiền đạo cắm Tiền đạo cánh | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Espanyol | ||
Số áo | 17 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
SGI | |||
2003–2007 | Esbjerg fB | ||
2007 | Midtjylland | ||
2007–2009 | Esbjerg fB | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2009–2013 | Esbjerg fB | 89 | (17) |
2013–2017 | Toulouse | 136 | (35) |
2017–2019 | Middlesbrough | 36 | (8) |
2018 | → Bordeaux (mượn) | 14 | (4) |
2019 | → Leganés (mượn) | 19 | (4) |
2019–2020 | Leganés | 24 | (6) |
2020–2022 | Barcelona | 58 | (10) |
2022– | Espanyol | 65 | (30) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2008 | U-17 Đan Mạch | 3 | (0) |
2009–2010 | U-19 Đan Mạch | 11 | (2) |
2012–2013 | U-21 Đan Mạch | 2 | (0) |
2013– | Đan Mạch | 64 | (10) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến ngày 4 tháng 5 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến ngày 30 tháng 11 năm 2022 |
Martin Christensen Braithwaite (/ˈbrɛθweɪt/; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đan Mạch hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Espanyol tại La Liga và đội tuyển quốc gia Đan Mạch.
Anh khởi đầu sự nghiệp tại Esbjerg fB và sau đó đã chơi cho Toulouse và Bordeaux ở Ligue 1, cùng với Leganés và Barcelona tại La Liga. Braithwaite cũng đã có hai năm thi đấu ở Anh với Middlesbrough.
Braithwaite đã có lần ra sân đầu tiên cho đội tuyển quốc gia Đan Mạch vào năm 2013 và hiện đã có 60 lần khoác áo đội tuyển. Anh đã góp mặt trong đội hình của họ tại FIFA World Cup 2018 và UEFA Euro 2020, lọt vào bán kết ở giải đấu sau đó.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Esbjerg fB
Braithwaite bắt đầu sự nghiệp bóng đá tại học viện Sædding-Guldager Idrætsforening (SGI), sau đó anh gia nhập câu lạc bộ quê hương Esbjerg fB. Anh đã có một thời gian ngắn tại học viện thể thao của FC Midtjylland trước khi trở lại Esbjerg với hợp đồng ba năm vào năm 2007. Trong thời gian này, anh cũng đã thử việc tại Reggina và Newcastle United. Braithwaite chính thức ra mắt tại Esbjerg vào năm 2009, chơi 63 trận ở Superliga và ghi 12 bàn, trong đó có 9 bàn ở mùa giải 2012–13, mùa giải mà anh thi đấu tất cả các trận của câu lạc bộ. Anh đã giành cúp Đan Mạch cùng đội bóng vào mùa giải này sau khi ghi hai bàn trong trận bán kết lượt về trước Brøndby IF.
Sau màn trình diễn ấn tượng với Esbjerg tại mùa xuân Superliga 2013 và Cúp Đan Mạch, Braithwaite đã được gọi vào đội tuyển quốc gia Đan Mạch vào mùa hè năm 2013. Cùng thời điểm, anh thu hút sự chú ý của nhiều câu lạc bộ châu Âu như Auxerre, Rennes, Celtic và Hull City.
Toulouse
Vào ngày 14 tháng 8 năm 2013, trong khi thi đấu cho đội tuyển quốc gia trong trận giao hữu với Ba Lan, DR thông báo rằng Braithwaite đã được chuyển nhượng đến câu lạc bộ Toulouse F.C. của Pháp với giá 15 triệu DKK (khoảng 2 triệu euro). Anh đã bắt đầu trận đấu và ghi bàn thắng thứ hai cho Đan Mạch.
Middlesbrough
Vào ngày 13 tháng 7 năm 2017, Braithwaite đã ký hợp đồng bốn năm với câu lạc bộ Middlesbrough ở giải EFL Championship với mức phí không được công bố, ước tính khoảng 9 triệu bảng. Dưới sự dẫn dắt của Garry Monk, anh là bản hợp đồng thứ ba của câu lạc bộ trong mùa giải, sau Jonny Howson và Cyrus Christie.
Anh có màn ra mắt giải đấu vào ngày 5 tháng 8 năm 2017 tại sân Molineux trong trận Middlesbrough thua Wolverhampton Wanderers với tỷ số 1–0. Bàn thắng đầu tiên của anh cho câu lạc bộ được ghi vào ngày 30 tháng 9 năm 2017 trong trận hòa 2-2 với Brentford tại sân Riverside.
Braithwaite được Bordeaux mượn vào ngày 31 tháng 1 năm 2018 để thi đấu hết mùa giải. Anh trở lại Middlesbrough cho mùa giải 2018–2019. Dù bắt đầu mùa giải ở Middlesbrough, anh sớm bày tỏ mong muốn chuyển đến Tây Ban Nha, điều này đã khiến huấn luyện viên Tony Pulis cảm thấy thất vọng. Sau khi nỗ lực rời câu lạc bộ không thành công trong kỳ chuyển nhượng mùa hè 2018, anh đã chơi nửa đầu mùa giải cho Middlesbrough và ghi ba bàn trong 18 trận.
Leganés
Braithwaite gia nhập CD Leganés ở La Liga vào đầu kỳ chuyển nhượng tháng 1 năm 2019 theo hợp đồng cho mượn đến hết mùa giải. Anh có màn ra mắt giải đấu vào ngày 12 tháng 1, góp mặt trong chiến thắng 1–0 trước SD Huesca, vào sân thay người ở phút 26 và ghi bàn thắng đầu tiên bốn ngày sau đó trong chiến thắng 1–0 tại Copa del Rey trước Real Madrid.
Anh ghi bàn đầu tiên trong trận thua 1–3 trước FC Barcelona vào ngày 20 tháng 1 năm 2019 và kết thúc mùa giải với bốn bàn thắng sau 19 lần ra sân. Vào ngày 24 tháng 7, anh đã ký hợp đồng chính thức bốn năm với CD Leganés, với mức phí chuyển nhượng được cho là lên đến 5 triệu euro, trở thành cầu thủ đắt giá thứ hai trong lịch sử của câu lạc bộ.
Barcelona
Ngày 20 tháng 2 năm 2020, Barcelona đã kích hoạt điều khoản giải phóng trị giá 18 triệu euro để ký hợp đồng bốn năm rưỡi với Braithwaite. Điều khoản giải phóng của anh được đặt ở mức 300 triệu euro. Barcelona được cấp phép ký hợp đồng với anh ngoài thời gian chuyển nhượng do chấn thương dài hạn của Ousmane Dembélé. Hai ngày sau khi ký hợp đồng, anh có trận ra mắt tại Camp Nou trong trận đấu với Eibar, vào sân thay người ở phút 72. Anh đã hỗ trợ cho hai bàn thắng trong chiến thắng 5–0, trong đó có một pha bóng vô tình làm đổi hướng. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2020, Braithwaite ghi bàn thắng đầu tiên cho Barcelona sau pha kiến tạo của Lionel Messi trong chiến thắng 4–0 trước RCD Mallorca.
Ngày 24 tháng 11 năm 2020, Braithwaite ghi hai bàn đầu tiên tại Champions League trong chiến thắng 4–0 trước Dynamo Kyiv, trận đấu mà anh cũng có một pha kiến tạo, trong mùa giải 2020–21. Vào ngày 2 tháng 12, anh ghi bàn thắng thứ ba trong trận đấu với Ferencváros. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2021, anh ghi bàn quyết định trong chiến thắng 3–0 trước Sevilla sau hiệp phụ, giúp Barcelona vào chung kết Copa del Rey 2021.
Ngày 15 tháng 8 năm 2021, Braithwaite đã ghi hai bàn thắng và kiến tạo cho Sergi Roberto trong trận đấu khai mạc mùa giải 2021–22 của Barcelona, giúp đội nhà giành chiến thắng 4–2 trước Real Sociedad. Tuy nhiên, vào tháng sau, anh buộc phải nghỉ thi đấu từ ba đến bốn tháng vì chấn thương sụn đầu gối trong trận đấu với Getafe CF; lúc này, các cầu thủ tấn công khác như Dembélé, Ansu Fati và Sergio Agüero cũng dính chấn thương, trong khi Messi đã rời đội và Antoine Griezmann được cho mượn.
Ngày 1 tháng 9 năm 2022, Braithwaite đã chấm dứt hợp đồng với Barcelona, hiệu lực ngay lập tức.
Espanyol
Ngày 1 tháng 9 năm 2022, Braithwaite ký hợp đồng ba năm với Espanyol với tư cách là cầu thủ tự do.
Sự nghiệp quốc tế
Braithwaite, sau khi từng chơi cho nhiều đội tuyển trẻ quốc gia Đan Mạch, vào mùa hè năm 2012 đã được mời đại diện cho Guyana nhờ cha anh có nguồn gốc từ quốc gia này. Tuy nhiên, anh đã từ chối và thay vào đó có trận ra mắt đội tuyển quốc gia Đan Mạch vào tháng 6 năm 2013 trong trận giao hữu với Georgia, anh đá chính và chơi hết hiệp một. Anh tiếp tục góp mặt trong trận đấu vòng loại World Cup 2014 gặp Armenia.
Vào tháng 5 năm 2018, anh được triệu tập vào đội hình 23 người của Đan Mạch tham dự World Cup 2018 tại Nga.
Đời tư
Cha của Braithwaite là người Guyana và em gái của anh, Mathilde (sinh năm 2002), hiện đang thi đấu cho KoldingQ và đội tuyển bóng đá nữ quốc gia U-16 Đan Mạch.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Đã được cập nhật tính đến ngày 22 tháng 5 năm 2021.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch quốc gia | Cúp | Cúp EFL | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Esbjerg fB | 2009–10 | Superliga | 10 | 0 | 0 | 0 | — | — | — | 10 | 0 | |||
2010–11 | 16 | 0 | 2 | 0
|
— | — | — | 18 | 0 | |||||
2011–12 | 1. Division | 26 | 5 | 1 | 0 | — | — | — | 27 | 5 | ||||
2012–13 | Superliga | 33 | 9 | 5 | 2 | — | — | — | 38 | 11 | ||||
2013–14 | 4 | 3 | 0 | 0 | — | — | — | 4 | 3 | |||||
Tổng cộng | 89 | 17 | 8 | 2 | 0 | 0 | — | — | 97 | 19 | ||||
Toulouse | 2013–14 | Ligue 1 | 32 | 7 | 2 | 1 | 2 | 0 | — | — | 36 | 8 | ||
2014–15 | 34 | 6 | 1 | 0 | 1 | 0 | — | — | 36 | 6 | ||||
2015–16 | 36 | 11 | 2 | 2 | 3 | 1 | — | — | 40 | 13 | ||||
2016–17 | 34 | 11 | 1 | 0 | 1 | 1 | — | — | 36 | 12 | ||||
Tổng cộng | 136 | 35 | 7 | 3 | 7 | 2 | — | — | 149 | 40 | ||||
Middlesbrough | 2017–18 | Championship | 19 | 5 | 2 | 1 | 0 | 0 | — | — | 21 | 6 | ||
2018–19 | 17 | 3 | 0 | 0 | 2 | 0 | — | — | 19 | 3 | ||||
Tổng cộng | 36 | 8 | 2 | 1 | 2 | 0 | — | — | 40 | 9 | ||||
Bordeaux (mượn) | 2017–18 | Ligue 1 | 14 | 4 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | 14 | 4 | ||
Leganés (mượn) | 2018–19 | La Liga | 19 | 4 | 2 | 1 | — | — | — | 21 | 5 | |||
Leganés | 2019–20 | 24 | 6 | 3 | 2 | — | — | — | 27 | 8 | ||||
Tổng cộng | 43 | 10 | 5 | 3 | — | — | — | 48 | 13 | |||||
Barcelona | 2019–20 | La Liga | 11 | 1 | 0 | 0 | — | — | — | 11 | 1 | |||
2020–21 | 29 | 2 | 5 | 2 | 0 | 0 | 6 | 3 | 2 | 1 | 42 | 8 | ||
Tổng cộng | 40 | 3 | 5 | 2 | 0 | 0 | 6 | 3 | 2 | 0 | 53 | 9 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 358 | 77 | 25 | 11 | 9 | 2 | 6 | 3 | 2 | 0 | 401 | 93 |
Đội tuyển quốc gia
- Thông tin chính xác tính đến trận đấu ngày 30 tháng 11 năm 2022.
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Đan Mạch | 2013 | 5 | 1 |
2014 | 2 | 0 | |
2015 | 5 | 0 | |
2016 | 2 | 0 | |
2017 | 3 | 0 | |
2018 | 12 | 2 | |
2019 | 10 | 4 | |
2020 | 7 | 0 | |
2021 | 11 | 3 | |
2022 | 8 | 0 | |
Tổng cộng | 64 | 10 |
Bàn thắng quốc tế
- Đã cập nhật thông tin tính đến trận đấu ngày 6 tháng 6 năm 2021.
# | Ngày | Địa điểm | Trận thứ | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 14 tháng 8 năm 2013 | PGE Arena, Gdańsk, Ba Lan | 2 | Ba Lan | 2–1 | 2–3 | Giao hữu |
2 | 16 tháng 10 năm 2018 | MCH Arena, Herning, Đan Mạch | 27 | Áo | 2–0 | 2–0 | Giao hữu |
3 | 16 tháng 11 năm 2018 | Sân vận động Cardiff City, Cardiff, Wales | 28 | Wales | 2–0 | 2–1 | UEFA Nations League 2018–19 |
4 | 10 tháng 6 năm 2019 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | 33 | Gruzia | 5–1 | 5–1 | Vòng loại Euro 2020 |
5 | 15 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Aalborg, Aalborg, Đan Mạch | 37 | Luxembourg | 1–0 | 4–0 | Giao hữu |
6 | 15 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | 38 | Gibraltar | 3–0 | 6–0 | Vòng loại Euro 2020 |
7 | 18 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Aviva, Dublin, Ireland | 39 | Cộng hòa Ireland | 1–0 | 1–1 | Vòng loại Euro 2020 |
8 | 25 tháng 3 năm 2021 | Sân vận động Bloomfield, Tel Aviv, Israel | 47 | Israel | 1–0 | 2–0 | Vòng loại World Cup 2022 |
9 | 6 tháng 6 năm 2021 | Sân vận động Brøndby, Copenhagen, Đan Mạch | 50 | Bosna và Hercegovina | 1–0 | 2–0 | Giao hữu |
10 | 6 tháng 6 năm 2021 | Amsterdam Arena, Amsterdam, Hà Lan | 54 | Wales | 4–0 | 4–0 | Euro 2020 |
Danh hiệu
Esbjerg fB
- Danh hiệu Cúp Đan Mạch: 2012–13
- Vô địch 1. Division: 2011–12
FC Barcelona
- Danh hiệu Copa Del Rey: 2020–21
Cá nhân
- Người chơi xuất sắc nhất tháng của Segunda Division: 2024
- Vua phá lưới Segunda Division: 2023–24
Chú thích
Các liên kết bên ngoài
- Thông tin về đội tuyển quốc gia Đan Mạch
- Thống kê tại Superliga Đan Mạch
- Martin Braithwaite trên Soccerbase
FC Barcelona – đội hình hiện tại | |
---|---|
|