
Ødegaard tại Arsenal năm 2022 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Martin Ødegaard | ||
Ngày sinh | 17 tháng 12, 1998 (25 tuổi) | ||
Nơi sinh | Drammen, Na Uy | ||
Chiều cao | 1,78 m (5 ft 10 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ tấn công | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Arsenal | ||
Số áo | 8 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
Strømsgodset | |||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2014–2015 | Strømsgodset | 23 | (5) |
2015–2017 | Real Madrid Castilla | 58 | (5) |
2015–2021 | Real Madrid | 8 | (0) |
2017–2018 | → SC Heerenveen (mượn) | 38 | (3) |
2018–2019 | → SBV Vitesse (mượn) | 31 | (8) |
2019–2020 | → Real Sociedad (mượn) | 31 | (4) |
2021 | → Arsenal (mượn) | 14 | (1) |
2021– | Arsenal | 78 | (24) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2014 | U-17 Na Uy | 4 | (0) |
2014–2018 | U-21 Na Uy | 18 | (5) |
2014– | Na Uy | 53 | (3) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 22 tháng 5 năm 2022 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 12 tháng 9 năm 2023 |
Martin Ødegaard (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Na Uy thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công và là đội trưởng của câu lạc bộ Arsenal tại Premier League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy.
Anh ra sân lần đầu tiên cho Strømsgodset vào ngày 13 tháng 4 năm 2014, trở thành cầu thủ trẻ nhất thi đấu tại Giải vô địch bóng đá Na Uy (Tippeligaen), và sau đó là cầu thủ ghi bàn trẻ nhất vào ngày 16 tháng 5. Tháng 1 năm 2015, anh chuyển đến Tây Ban Nha để thi đấu cho Real Madrid và thi đấu cho đội dự bị Real Madrid Castilla. Ødegaard giữ kỷ lục là cầu thủ trẻ nhất ra sân cho Real Madrid tại La Liga khi mới 16 tuổi và 157 ngày.
Ødegaard ra mắt đội tuyển quốc gia Na Uy vào ngày 27 tháng 8 năm 2014 trong trận gặp Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, trở thành cầu thủ trẻ nhất khoác áo đội tuyển quốc gia Na Uy khi mới 15 tuổi và 253 ngày. Ngày 13 tháng 10 năm 2014, anh cũng trở thành cầu thủ trẻ tuổi nhất xuất hiện ở vòng loại EURO.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Ødegaard bắt đầu tập luyện cùng đội hình một của Strømsgodset từ năm 2013, khi anh mới 14 tuổi. Anh cũng có thời gian ngắn tập luyện tại Bayern Munich và Manchester United. Vào tháng 1 năm 2014, Ødegaard được gọi lên đội hình một của Strømsgodset nhưng chưa ký hợp đồng. Anh cũng thường tham gia vào các buổi tập tại Mjøndalen IF, nơi cha anh làm huấn luyện viên.
Anh ra sân chính thức lần đầu tiên cho Strømsgodset trong trận đấu với Aalesunds FK tại sân vận động Marienlyst vào ngày 13 tháng 4 năm 2014. Ở tuổi 15, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất thi đấu tại Giải vô địch bóng đá Na Uy (Tippeligaen). Ngày 5 tháng 5 năm 2014, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp với Strømsgodset đến năm 2015. Ngày 16 tháng 5 năm 2014, anh ghi bàn thắng thứ tư trong chiến thắng 4-1 của Strømsgodset trước Sarpsborg 08 FF, trở thành cầu thủ trẻ nhất ghi bàn tại Giải vô địch bóng đá Na Uy. Vào ngày 16 tháng 7, anh có trận đấu đầu tiên ở đấu trường châu Âu khi thay thế Lars Christopher Vilsvik trong năm phút cuối trận đấu với Steaua Bucureşti, vòng sơ loại thứ hai của UEFA Champions League.
Trong trận đấu với Sandnes Ulf vào cuối tháng 7, anh đã góp công trong cả ba bàn thắng của Strømsgodset, ghi một bàn và kiến tạo một bàn. Anh cũng được phạt đền nhưng đồng đội lại đá hỏng. Sau trận đấu, truyền thông đã thảo luận về khả năng anh sẽ sớm được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Na Uy.
Ngày 15 tháng 8, anh lại một lần nữa trở thành tâm điểm với ba pha kiến tạo trong chiến thắng 3-2 trước IK Start khi đá ở cánh phải. Anh có cú đúp đầu tiên trong sự nghiệp trong chiến thắng 2-1 trước Lillestrøm SK ngày 19 tháng 10 năm 2014. Strømsgodset kết thúc mùa giải với vị trí thứ tư và giành quyền tham dự vòng sơ loại UEFA Europa League. Ødegaard tổng cộng ghi được 5 bàn thắng và có 7 pha kiến tạo sau 23 trận.
Real Madrid
Ngày 21 tháng 1 năm 2015, Real Madrid chính thức hoàn tất việc chiêu mộ Ødegaard từ Strømsgodset với mức phí chuyển nhượng khoảng 3 triệu €. Trong cuộc họp báo sau khi ký hợp đồng, Real Madrid thông báo Ødegaard sẽ tham gia vào các buổi tập cùng đội một và Real Madrid Castilla, dưới sự chỉ đạo của Zinedine Zidane.
Đầu tháng 2 năm 2015, Real Madrid đã bổ nhiệm Ødegaard vào danh sách tham dự vòng loại trực tiếp đầu tiên của UEFA Champions League 2014-15 với đối thủ là Schalke 04.
Ngày 23 tháng 5 năm 2015, anh có trận đấu ra mắt cho Real Madrid khi vào sân ở phút thứ 58 thay Cristiano Ronaldo trong chiến thắng 7-3 trước Getafe tại La Liga. Anh chính thức trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử Real Madrid ra sân tại La Liga khi mới 16 tuổi và 157 ngày, phá vỡ kỷ lục đã tồn tại suốt 31 năm của Sebastián Losada.
Vào ngày 25 tháng 1 năm 2020, anh ra sân trong trận đấu đầu tiên tại Champions League cho Real Madrid, trong chiến thắng 2–0 trước Inter Milan trên sân khách.
2017–2020: Giai đoạn cho mượn tại Hà Lan và Tây Ban Nha
Vào ngày 10 tháng 1 năm 2017, Ødegaard chính thức gia nhập SC Heerenveen theo dạng cho mượn trong 18 tháng. Anh ra mắt Eredivisie bốn ngày sau đó trong chiến thắng 2-0 trước ADO Den Haag. Anh ghi bàn đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 18 tháng 5 trong trận thua 3-1 trước FC Utrecht.
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2018, Real Madrid thông báo Ødegaard sẽ được cho mượn tại SBV Vitesse. Sau một mùa chơi ở đây, anh lại được cho mượn tại Real Sociedad. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2019, anh ghi bàn đầu tiên tại La Liga trong chiến thắng 1-0 trước Mallorca. Vào tháng 9 năm 2019, Ødegaard được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng tại La Liga. Vào tháng 2 năm 2020, anh ghi bàn vào tứ kết Cúp Nhà vua Tây Ban Nha để loại chính Real Madrid, sau đó Real Sociedad vào chung kết nhưng trận đấu bị hoãn do đại dịch COVID-19. Ødegaard đã có một mùa giải thành công cá nhân mặc dù phải vắng mặt ở giai đoạn cuối vì chấn thương gân kheo, một vấn đề từng xảy ra vài tháng trước đó.
Arsenal
Vào ngày 27 tháng 1 năm 2021, Ødegaard gia nhập Arsenal theo dạng cho mượn đến hết mùa giải. Ba ngày sau, anh ra mắt Premier League trong trận hòa 0-0 trước Manchester United. Vào ngày 18 tháng 2, Ødegaard thi đấu lần đầu tại Europa League cho Arsenal trong trận hòa 1-1 trước Benfica trên sân khách. Vào ngày 11 tháng 3, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Arsenal từ khoảng cách 20 mét trong chiến thắng 3-1 trước Olympiacos ở lượt đi vòng 16 đội Europa League. Bàn thắng này sau đó được bình chọn là Bàn thắng của tháng tháng 3 trên trang web chính thức của Arsenal. Vào ngày 14 tháng 3, Ødegaard ghi bàn thắng đầu tiên trong Premier League trong chiến thắng 2-1 trước Tottenham. Với màn trình diễn xuất sắc của mình trong tháng 3 năm 2021, anh đã được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng trên trang web chính thức của Arsenal.
Vào ngày 20 tháng 8 năm 2021, Arsenal đã công bố ký hợp đồng vĩnh viễn với Ødegaard từ Real Madrid với một hợp đồng trị giá 35 triệu euro và các khoản phụ cấp có thể lên đến 40 triệu euro. Ødegaard đã ký hợp đồng 4 năm với lựa chọn gia hạn thêm một năm. Anh ghi bàn đầu tiên trong mùa giải bằng một cú đá phạt trong chiến thắng 1-0 trên sân khách trước Burnley.
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2022, Ødegaard được công bố là đội trưởng mới của Arsenal.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Các đội trẻ
Vào tháng 1 năm 2014, Ødegaard tham gia đội tuyển U-17 Na Uy thi đấu giao hữu với U-17 Scotland, U-17 Mỹ và U-17 Pháp tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Đến tháng 9 năm 2014, Ødegaard được triệu tập vào đội tuyển U-21 Na Uy cho trận đấu cuối cùng của vòng loại giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2015. Anh đã thi đấu suốt 90 phút trong trận thua 1-2 trước U-21 Bồ Đào Nha.
Đội tuyển quốc gia
Vào ngày 19 tháng 8 năm 2014, Ødegaard được triệu tập vào đội tuyển Na Uy cho trận giao hữu với Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất tại Stavanger và ra sân vào ngày 27 tháng 8, trở thành cầu thủ trẻ nhất khoác áo đội tuyển Na Uy, ở tuổi 15 và 253 ngày. Kỷ lục trước đó do Tormod Kjellsen lập vào năm 1910 là 15 tuổi 351 ngày.
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2014, Ødegaard được triệu tập cho vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016 để thi đấu với Malta và Bulgaria. Anh vào sân vào phút 64 thay cho Mats Møller Dæhli trong trận Na Uy thắng 2-1 trước Bulgaria, trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử tham dự vòng loại Euro ở tuổi 15 và 300 ngày. Thành tích của Ødegaard vượt xa kỷ lục cũ là 16 tuổi 251 ngày của Sigurður Jónsson tại vòng loại Euro 1984.
Vào ngày 29 tháng 3 năm 2015, Ødegaard trở thành cầu thủ trẻ nhất bắt đầu vòng loại Giải vô địch châu Âu khi mới 16 tuổi và 101 ngày trong trận thua 5–1 trước Croatia. Vào ngày 8 tháng 6, anh ra sân trong trận giao hữu 0–0 của Na Uy với Thụy Điển tại Scandinavia ở Oslo. Sau khi Na Uy đứng thứ ba trong bảng xếp hạng của họ, Ødegaard được điền tên vào đội hình của họ trong trận play-off với Hungary. Không được sử dụng trong trận lượt đi, anh được tung vào sân trong hiệp hai của trận lượt về vào ngày 15 tháng 11, khi Na Uy thua 2-1 vào đêm và tổng tỉ số là 3–1.
Sau 18 tháng không khoác áo ĐTQG, phong độ của Ødegaard ở Heerenveen giúp anh được gọi trở lại đội tuyển Na Uy dưới thời Lars Lagerbäck và anh có lần khoác áo thứ 10 trong trận gặp Macedonia vào tháng 11 năm 2017. Vào ngày 7 tháng 6 năm 2019, Ødegaard ghi bàn quốc tế đầu tiên vào lưới Romania trong trận đấu vòng loại UEFA Euro 2020, kết thúc với tỷ số hòa 2–2.
Vào tháng 3 năm 2021, Ødegaard được bổ nhiệm làm đội trưởng của đội tuyển quốc gia nam bởi huấn luyện viên Ståle Solbakken.
Phong cách thi đấu
Ødegaard nổi bật với sự nhanh nhẹn trong xử lý bóng và kỹ thuật xuất sắc. Huấn luyện viên David Nielsen của Strømsgodset so sánh cách anh thi đấu với các ngôi sao tại các CLB lớn như Messi và David Silva. Báo chí Na Uy cũng ví anh với Lionel Messi về khả năng đi bóng nhanh, kỹ thuật cá nhân điêu luyện và khả năng dứt điểm chính xác. Đồng đội Morten Gamst Pedersen của đội tuyển Na Uy khen ngợi Ødegaard về khả năng đọc trận đấu và kỹ thuật cá nhân, mặc dù cũng nhắc đến cần anh cần phải rèn luyện thể lực.
Cuộc sống cá nhân
Ødegaard là con trai của cựu cầu thủ Hans Erik Ødegaard, từng thi đấu cho Strømsgodset và Sandefjord Fotball ở vị trí tiền vệ và hiện là trợ lý huấn luyện viên tại Mjøndalen IF. Anh có một người anh là Kristoffer và hai người em gái là Emilie và Mari. Anh bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp khi vẫn đang đi học. Lionel Messi là thần tượng của anh và anh là fan của Liverpool.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Tính đến ngày 22 tháng 5 năm 2022
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Strømsgodset 3 | 2013 | Norwegian Fourth Division | 11 | 4 | — | — | — | — | 11 | 4 | ||||
Strømsgodset 2 | 2013 | Norwegian Third Division | 2 | 0 | — | — | — | — | 2 | 0 | ||||
2014 | Norwegian Third Division | 3 | 1 | — | — | — | — | 3 | 1 | |||||
Tổng cộng | 5 | 1 | — | — | — | — | 5 | 1 | ||||||
Strømsgodset | 2014 | Tippeligaen | 23 | 5 | 1 | 0 | — | 1 | 0 | — | 25 | 5 | ||
Real Madrid Castilla | 2014–15 | Segunda División B | 11 | 1 | — | — | — | — | 11 | 1 | ||||
2015–16 | Segunda División B | 34 | 1 | — | — | — | 4 | 0 | 38 | 1 | ||||
2016–17 | Segunda División B | 13 | 3 | — | — | — | — | 13 | 3 | |||||
Tổng cộng | 58 | 5 | — | — | — | 4 | 0 | 62 | 5 | |||||
Real Madrid | 2014–15 | La Liga | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | |
2015–16 | La Liga | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | — | 0 | 0 | |||
2016–17 | La Liga | 0 | 0 | 1 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | ||
2020–21 | La Liga | 7 | 0 | 0 | 0 | — | 2 | 0 | 0 | 0 | 9 | 0 | ||
2021–22 | La Liga | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ||
Tổng cộng | 8 | 0 | 1 | 0 | — | 2 | 0 | 0 | 0 | 11 | 0 | |||
SC Heerenveen (mượn) | 2016–17 | Eredivisie | 14 | 1 | 1 | 0 | — | — | 2 | 1 | 17 | 2 | ||
2017–18 | Eredivisie | 24 | 2 | 2 | 0 | — | — | 0 | 0 | 26 | 2 | |||
Tổng cộng | 38 | 3 | 3 | 0 | — | — | 2 | 1 | 43 | 4 | ||||
Vitesse (mượn) | 2018–19 | Eredivisie | 31 | 8 | 4 | 2 | — | — | 4 | 1 | 39 | 11 | ||
Real Sociedad (mượn) | 2019–20 | La Liga | 31 | 4 | 5 | 3 | — | — | — | 36 | 7 | |||
Arsenal (mượn) | 2020–21 | Premier League | 14 | 1 | — | — | 6 | 1 | — | 20 | 2 | |||
Arsenal | 2021–22 | Premier League | 36 | 7 | 1 | 0 | 3 | 0 | — | — | 40 | 7 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 255 | 38 | 15 | 5 | 3 | 0 | 9 | 1 | 10 | 2 | 292 | 46 |
Đội tuyển quốc gia
- Tính đến ngày 12 tháng 9 năm 2023
Đội tuyển quốc gia | Year | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Na Uy | 2014 | 3 | 0 |
2015 | 5 | 0 | |
2016 | 1 | 0 | |
2017 | 1 | 0 | |
2018 | 4 | 0 | |
2019 | 8 | 1 | |
2020 | 3 | 0 | |
2021 | 12 | 0 | |
2022 | 10 | 1 | |
2023 | 6 | 1 | |
Tổng cộng | 53 | 3 |
- Tính đến ngày 12 tháng 9 năm 2023
- Thông tin về số bàn thắng của Na Uy, với mỗi bàn của Ødegaard ghi lại kết quả tỷ số sau đó
# | Trận | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 17 | 7 tháng 6 năm 2019 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | România | 2–0 | 2–2 | Vòng loại UEFA Euro 2020 |
2 | 38 | 25 tháng 3 năm 2022 | Slovakia | 2–0 | 2–0 | Giao hữu | |
3 | 53 | 12 tháng 9 năm 2023 | Gruzia | 2–0 | 2–1 | Vòng loại UEFA Euro 2024 |
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Real Sociedad
- Copa del Rey: 2019–20
Arsenal
- FA Community Shield: 2023
Thành tựu cá nhân
- Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất Tippeligaen: 2014
- Ngôi sao của năm Idrettsgallaen: 2014
- Cầu thủ xuất sắc nhất tháng Eredivisie: Tháng 4 năm 2019
- Tài năng của tháng Eredivisie: Tháng 5 năm 2019
- Đội hình của năm Eredivisie: 2018–19
- Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Vitesse: 2018–19
- Cầu thủ xuất sắc nhất tháng La Liga: Tháng 9 năm 2019
- Gullballen: 2019
- Đội hình tiết lộ xuất sắc nhất La Liga UEFA: 2019–20
- Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Arsenal: 2022-23