Chắc chắn hiện nay các bạn học sinh đang tập trung ôn tập cho kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới. Để hỗ trợ các bạn, chúng tôi xin giới thiệu một mẫu bài văn lớp 12: Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu, được chúng tôi tổng hợp và chia sẻ dưới đây.
Bài thơ Tiếng hát con tàu là tác phẩm mà Chế Lan Viên dành để thể hiện tình cảm yêu nước của mình. Dưới đây là một số điểm cơ bản trong phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu, cùng với một số mẫu bài văn lớp 12 liên quan, mời các bạn tham khảo.
Bố cục phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu
I. Khai mạc:
- Giới thiệu một số đặc điểm về Chế Lan Viên:
– Bộ sưu tập thơ “Điêu tàn” xuất bản năm 1937 đã vinh danh Chế Lan Viên là nhà thơ đáng chú ý của trào lưu Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám 1945.
– Ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp, một hành động đã định hình rõ nét hơn về cuộc sống và sự nghiệp sáng tác của ông, trong đó ông cố gắng hòa mình với tinh thần của nhân dân và đất nước.
– Bài thơ “Tiếng hát con tàu” ra đời trong bối cảnh cụ thể là thời kỳ phong trào nhân dân ở miền xuôi di chuyển lên miền núi để mở rộng đất đai, phát triển nền kinh tế. Bài thơ không chỉ là tiếng hát của một tâm hồn quên mình để yêu thương cả nhân dân, cả nước; mà còn là biểu tượng của tình yêu và lòng biết ơn sâu sắc của tác giả dành cho vùng Tây Bắc – một miền đất đầy ý nghĩa và tình cảm.
II. Phần chính:
1. Ý nghĩa của lời mở đầu:
Ngay từ lời mở đầu, tác giả đã truyền đạt tư duy chủ đề của bài thơ và tâm trạng của mình. Câu hỏi đặt ra: Tây Bắc là gì? Tại sao Tây Bắc… là sự phản ánh của sự nghiệp, sự trăn trở sâu sắc trong tâm trí của nhà thơ cũng như tầng lớp văn nghệ sĩ chung trong thời kỳ lịch sử đó.
2. Hai khổ thơ đầu tiên là lời kêu gọi với những câu hỏi ngày càng quan trọng.
– Dường như hình ảnh của con tàu là một biểu tượng tượng trưng cho ước mơ, khát vọng vượt ra khỏi hẹp hòi của cuộc sống, để đến với thế giới lớn lao của nhân vật chính. Nhà thơ đã thông qua sự so sánh tài tình để mô tả tâm hồn mình như một con tàu lao vun vút về phía nhân dân, đất nước.
– Tây Bắc – tên gọi cụ thể chỉ một vùng đất xa xôi của Tổ quốc nhưng cũng là biểu tượng của cuộc sống phong phú của nhân dân và đất nước.
-Tây Bắc là nguồn cảm hứng của hồn thơ, của sự sáng tạo nghệ thuật. Do đó, việc trở về Tây Bắc cũng là việc trở về với tâm hồn của mình, với những tinh cảm trong sáng, tình nghĩa sâu sắc với nhân dân và đất nước.
3. Chín khổ thơ tiếp theo là một mạch nguồn của niềm hạnh phúc và khao khát trở về với nhân dân, đưa lại những ký ức đậm sâu về tình đoàn kết trong thời kỳ kháng chiến.
– Khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống của con người ở Tây Bắc đã có những thay đổi.
– Đến Tây Bắc là trở về với vùng đất gần gũi với tâm hồn, là một hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc thân thương.
– Tác giả tái hiện ký ức về các cư dân của vùng Tây Bắc qua những hình ảnh sống động như người anh du kích, bà mẹ tóc bạc, người em nhỏ giữ liên lạc...
– Sự chăm sóc, che chở, và tình thương chan hòa của người dân hiền lành ở Tây Bắc đã thêm sức mạnh vào tinh thần của nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, và ghi lại những kỷ niệm sâu sắc không thể nào phai mờ.
– Nhà thơ thể hiện mạnh mẽ niềm khao khát và niềm hạnh phúc khi trở về gặp lại nhân dân.
Từ những kỷ niệm đẹp về đồng bào ở vùng cao Tây Bắc, tác giả suy ngẫm sâu xa, rút ra những bài học quý báu, những chân lý từ trải nghiệm cá nhân.
– Dù nói về tình yêu nhưng tác giả cũng đưa ra những suy luận sắc bén, giải thích để làm sáng tỏ ý nghĩa của toàn bộ đoạn thơ. Chế Lan Viên đã thần kỳ về phép màu của tình yêu, biến những vùng đất xa xôi thành thân thương như quê hương, và làm cho chúng trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn của chúng ta.
– Chế Lan Viên mạnh dạn thể hiện tình yêu và nỗi nhớ thông qua những mối quan hệ chặt chẽ, hóm hỉnh giữa những người yêu bằng những hình ảnh sặc sỡ và đậm đà phong vị vùng cao.
– Với sự sáng tạo đặc biệt của nhà thơ, nghệ thuật của ông diễn tả về nhân dân, tình yêu con người, và tình yêu cuộc sống. Các ẩn dụ nghệ thuật đều mang nhiều ý nghĩa. Nhịp điệu của thơ vừa sôi nổi vừa da diết, lắng sâu.
4. Bốn khổ thơ cuối là biểu tượng cho niềm tin, sự sôi nổi, và đam mê của cuộc hành trình.
– Tiếng gọi của đất nước, của nhân dân, và của cuộc sống đã trở thành sự thúc đẩy mạnh mẽ, là lời kêu gọi mãnh liệt, là nỗi khao khát nồng nhiệt trong lòng.
– Những lời động viên, cổ vũ, và khẳng định quyết tâm chuẩn bị bước chân lên đường.
– Chế Lan Viên sử dụng hình ảnh tượng trưng từ ca dao để thể hiện sự cao quý của tâm hồn.
– Những khổ thơ cuối của tác phẩm đặt ra bài học về triết lí nhân sinh và quan điểm về nghệ thuật: Cuộc sống thực tế là nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tác văn chương. Nghệ thuật không thể tách rời khỏi cuộc sống thực tế. Cuộc sống thực tế là nền tảng tạo ra cảm hứng sáng tạo và trữ tình cách mạng...
III. Kết luận :
– Thơ của Chế Lan Viên phong phú về trí tuệ và sâu sắc về tính trữ tình.
– Phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên làm nổi bật tên tuổi ông trong làng thơ cách mạng của Việt Nam.
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu - Mẫu 1
'Cánh hoa vô tình rơi
Vẫn tỏa sáng yêu đời đẹp đẽ
Lời thơ nước mắt hòa cùng hạnh phúc
Đem lại niềm vui tràn đầy lòng...'
(Khi đã biết hướng)
Không rõ trong cuộc đời, Chế Lan Viên đã viết bao nhiêu bài 'lời thơ nước mắt', nhưng có nhiều tác phẩm đẹp như 'cánh hoa...'. 'Tiếng hát con tàu' chính là một minh chứng! Sáng tác vào năm 1960, bài thơ này là một tinh hoa trong tập thơ 'Ánh sáng và phù sa' của ông, một tập thơ đã gây ra tiếng vang lớn... là điểm dừng quan trọng trong sáng tác của ông, và cả thơ ca Việt Nam... đã mở ra một hướng đi mới, một cảm xúc mới, một tầm nhìn mới'. (Người làm vườn vĩnh cửu - Trần Mạnh Hảo)
Bài thơ, bên cạnh 4 câu đề từ, còn có 15 khổ thơ, gồm 60 câu, chủ yếu mỗi dòng thơ 8 từ, chỉ có một câu 12 từ, thể hiện diện mạo của 'Tiếng hát con tàu'.
Năm 1960, miền Bắc tiến vào kế hoạch 5 năm lần đầu, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa. Phong trào đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi trở thành một phong trào cách mạng rộng lớn để biến 'Tây Bắc thành ngọc ngà của Tổ quốc vào ngày mai' (Phạm Văn Đồng). 'Tiếng hát con tàu' đã 'mang tinh thần thời đại bay cao' (Tố Hữu), vượt lên tính chất thời sự để trở thành bài hát thể hiện khát vọng, gắn bó với cuộc sống sôi động bằng tình yêu Tổ quốc và nhân dân, để lao động, khám phá và sáng tạo. Suy tưởng sâu sắc, nghệ thuật sắc sảo và hình tượng độc đáo... đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực của bài thơ kiệt tác này.
Trước hết nói về khổ thơ đề từ đặc biệt và tài năng. Cấu trúc vần dưới dạng hỏi – đáp. Không chỉ hỏi bằng câu hỏi mà đáp cũng là câu hỏi. Giọng điệu lôi cuốn, say mê, phấn khởi:
'Tây Bắc ư? Có gì đặc biệt ở Tây Bắc
Khi trái tim đã hoá thành con tàu,
Khi Tổ quốc rộng lớn hát lên
Tâm hồn ta chính là Tây Bắc còn gì nữa?'.
Bao phủ lời đề từ là niềm tự hào về một tình yêu lớn của nhà thơ. Hỏi - đáp để khẳng định nhận thức của tâm hồn mình. Câu 1 thể hiện tình cảm to lớn: không chỉ yêu Tây Bắc mà nhà thơ còn hướng tâm hồn đến mọi nơi trong đất nước với tình yêu thương tha thiết. Câu 2 và 3 làm sáng tỏ nguồn gốc của tình cảm cao đẹp ấy. Điều kiện chủ quan là 'Khi trái tim đã hoá thành con tàu', chính 'ta' đã sống với ước mơ muốn đi khắp mọi nơi trong Tổ quốc thân yêu để hiến dâng và phục vụ. Điều kiện khách quan là hiện thực xã hội, là không khí của thời đại: 'Khi Tổ quốc rộng lớn hát lên'. Đó là một thời kỳ rất đẹp, rất sôi nổi ở miền Bắc nước ta. Nhân dân hứng khởi, hào hứng xây dựng đất nước và cuộc sống mới. Một nhà thơ khác đã khen ngợi là '... bài thơ miền Bắc - rất tự do nên tươi sáng, tươi đẹp'. Câu thơ cuối cùng là kết quả tất yếu của điều kiện chủ quan và khách quan: 'Tâm hồn ta chính là Tây Bắc còn gì nữa?'. Câu hỏi tự hào biểu lộ tâm hồn mình đã hòa nhập, đã gắn bó, đã yêu quý nồng nàn Tây Bắc. Cách so sánh và cách diễn đạt mới lạ, hấp dẫn. Khổ thơ đề từ không chỉ nói lên tình yêu Tây Bắc, tình yêu Tổ quốc mà còn thể hiện sự biện luận sắc sảo - một đặc điểm đẹp trong thi pháp của Chế Lan Viên.
'Anh ra đi à?' hay 'anh ở lại Hà Nội à?'; 'Anh có nghe...?' và 'Tàu gọi anh đi, tại sao anh chưa ra đi?' - Đó là tâm trạng, là nỗi niềm băn khoăn về việc ra đi hay ở lại? Tâm trạng ngại đi xa, sợ khó khăn gian truân... là một sự thật của lòng người, không chỉ riêng nhà thơ trong những tháng ngày hòa bình sau 9 năm chiến đấu chống Pháp. Cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra trong mỗi con người, đó là một sự thật. Chế Lan Viên đã sử dụng biện pháp tương phản để làm nổi bật tâm trạng và nỗi niềm băn khoăn ấy. Hàng loạt câu hỏi tu lừ phát sinh, tiết điệu thơ rùng rợn, thúc ép:
'Con tàu này lên Tây Bắc, anh ra đi à?
Bạn bè ra xa, anh giữ trời Hà Nội
... Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
...Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi!'.
Hình ảnh con tàu trong 2 khổ thơ đầu: 'Con tàu lên Tây Bắc anh ra đi à?' và 'Tàu đói những vành trăng' - chỉ là một biểu tượng về một hành trình đi xa; con tàu này vẫn 'đói những vành trăng' nghĩa là chưa có đủ động lực để tiến tới những không gian, những chân trời. Nó chưa thể là 'Tiếng hát con tàu'. Đó là sự tinh tế trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên.
Chín khổ thơ tiếp theo chứa đựng những tư tưởng tình cảm đẹp khi nhà thơ nghĩ về Tây Bắc và con người Tây Bắc với bao kỷ niệm sâu sắc, xúc động. Bài học về lòng trung thành với đất nước và nhân dân khiến ta trưởng thành về tâm hồn và để lại dấu ấn mãi.
Ngọn lửa chiến đấu kỳ diệu, những dãy núi, những con đường, dòng suối, những anh du kích, em bé liên lạc, bà mẹ, cô gái Tây Bắc 'vắt xôi nuôi quân' đã trở thành kỷ niệm, để nhớ, để thương, đã trở thành tâm hồn của người cán bộ chiến đấu ở miền xuôi, nhà thơ...
Tây Bắc là linh hồn thiêng liêng của núi rừng, là nơi bùng cháy ngọn lửa của cuộc kháng chiến, ngọn lửa Điện Biên kỳ diệu, là 'vùng đất anh hùng thiêng liêng', là mảnh đất mến thương 'nơi hồn ta nhuộm đỏ đất – Nay trùm phủ màu xanh của mùa xuân'. Tự hào và nhìn về phía trước với niềm tin sáng ngời:
'Ơi cuộc kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, vẫn đủ sức chiếu sáng con đường'.
Nhận thức đó đã rọi sáng tâm hồn, hiểu biết về con đường phía trước vẫn còn nhiều gian nan nhưng tự ý thức rằng 'con cần vượt qua' để trở về nguồn gốc 'cho con quay về gặp Mẹ yêu thương'. 'Mẹ' được viết hoa, một từ ngữ cao quý, là hình ảnh đẹp đẽ của Đất Mẹ Tổ quốc muôn thuở. Sử dụng ngôn ngữ chính xác, biểu cảm, sáng tạo hình ảnh đã làm cho bài thơ 'Tiếng hát con tàu' vươn lên: 'vùng đất thiêng liêng', 'nơi máu đỏ chảy', 'trái chín đầu mùa xuân', 'ngọn lửa... chiếu sáng đường đi', 'Mẹ yêu thương'. Các đơn vị thời gian: 'mười năm qua', 'nghìn năm sau' là một cách nói mang tính triết học về một trải nghiệm lịch sử sâu sắc.
Với Chế Lan Viên, gặp lại nhân dân là một niềm vui lớn, một khao khát lớn, một hạnh phúc lớn:
'Con quay lại gặp nhân dân như nai trở về nguồn nước cũ,
Cỏ mừng đón giếng nước, chim én chào mừng mùa,
Như đứa trẻ thơ gặp bữa ăn no bổ
Chiếc nôi bất ngờ gặp bàn tay đưa'.
Một cách diễn đạt vừa quen vừa mới lạ. Năm hình ảnh so sánh liên tiếp xuất hiện để cụ thể hóa, hình tượng hóa niềm vui, niềm hạnh phúc to lớn 'Con gặp lại nhân dân'. Có hình ảnh về thế giới thiên nhiên, có hình ảnh vẻ cõi đời, tuổi thơ. Nhân dân là cội nguồn của sự sống và hạnh phúc, là suối mát mùa xuân đón bầy nai đói khát trở về chốn cũ yêu thương, là hơi ấm mùa xuân đem lại màu xanh và hương mật cho cỏ, là ánh thiều quang cho chim én sánh đôi kết đàn, là dòng sữa ngọt cho bé thơ đói lòng, là cánh tay nhẹ đưa nôi mềm đem lại giấc ngủ say, cơn mơ đẹp cho em nhỏ... Có hình ảnh thơ mộng. Có hình ảnh ấm áp sâu nặng nghĩa tình. Những so sánh ấy còn mang một ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: trở về với nhân dân là trở về nguồn hạnh phúc, là hợp đạo lí và đúng lẽ tự nhiên. Triết luận ấy càng trở nên sâu sắc, thấm thiết vì nó được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ chọn lọc, hình tượng, gợi cảm, thi vị.
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu - Mẫu 2
Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Con đường sáng tác của nhà thơ trải qua nhiều thăng trầm với những bước ngoặc trong phong cách nghệ thuật và tư tưởng chủ đạo, không còn là thế giới kinh dị, huyền bí trong Điêu tàn, sau năm 1945, ông đã rẽ hướng tập trung khai thác đề tài con người và đất nước trong kháng chiến. Thơ Chế Lan Viên mang đậm vẻ đẹp trí tuệ và giàu suy tư triết lý với những hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, đầy sức sáng tạo.
Tiếng hát con tàu được rút ra từ tập Ánh sáng và phù sa, bài thơ được lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế - chính trị có ý nghĩa vô cùng lớn lao: Cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế nơi miền núi Tây Bắc. Bài thơ là sự kết tinh xuất sắc giữa tư tưởng và nghệ thuật của Chế Lan Viên trong sự nghiệp thi ca cách mạng của mình.
Những câu thơ trong lời đề từ gợi lên cảm xúc, làm xao xuyến lòng người đọc, nó đã thể hiện được tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm:
“Tây Bắc ư? Hay lòng ta đã biến thành những con tàu
Khi Tổ quốc cất lên khúc hát rộn ràng
Tâm hồn ta đã hòa mình vào Tây Bắc
Chẳng còn điều gì khác?”
Câu hỏi tĩnh lặng “Tây Bắc ư?” dấu chứa sự suy tư, lo lắng của nhà thơ trước thực trạng đất nước. Tiếng gọi từ Tổ quốc vang vọng, và tâm hồn của Chế Lan Viên nay chỉ hướng về Tây Bắc xa xôi, ông không còn sợ khó khăn, không còn lo sợ hiểm nguy vì trái tim ông đã hoà mình vào Tổ quốc, vì ông đã “biến thành những con tàu”.
Hai khổ thơ mở đầu vang lên như lời thúc giục, như lời kêu gọi sôi nổi hơn, ngôn từ thấm đẫm, những câu hỏi ngày càng trở nên dồn dập, xoay sâu trong lòng tác giả cũng như trong lòng thế hệ văn nghệ sĩ:
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang gọi
Ngoài cửa ô? Tàu còn khát ánh trăng
Đất nước bao la, cuộc đời anh hẹp hòi
Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi?
Chẳng có lối thoát trong tâm hồn khép kín
Tâm hồn anh đang đợi mình trên cao”
Hình ảnh “con tàu”ẩn dụ khao khát, hoài bão to lớn đang chảy trào trong lòng người dân Việt Nam. Tiếng gọi của con tàu vang lên như một lời kêu gọi mạnh mẽ, nồng nàn từ Chế Lan Viên. Biện pháp tu từ nhân hoá “Tàu còn khát ánh trăng” thật sự sâu lắng, sinh động, “ánh trăng” hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình cũng là biểu tượng cho ánh sáng, niềm tin và hi vọng về một tương lai rộng lớn không xa. Động từ “khát” đem đến cho độc giả nhiều suy tư, đất nước cần sự đoàn kết, đoàn kết trong nhân dân, sẵn sàng hy sinh để xây dựng Tổ quốc vững mạnh. Tây Bắc - một địa danh xa xôi, hiểm trở cũng là một biểu tượng cho đất nước, Tây Bắc là nguồn cảm hứng của bài thơ, của sự sáng tạo nghệ thuật phong phú. “Đất nước bao la, cuộc đời anh hẹp hòi”, sự đối lập đầy ẩn chứa, khiến cho độc giả phải suy ngẫm. Ta sống dưới sự bảo vệ của thiên nhiên, của Tổ quốc nhưng liệu ta đã làm được gì cho đất nước hay chỉ sống cuộc đời vô nghĩa “tâm hồn khép kín” trước cuộc sống bên ngoài?
Niềm vui tràn đầy, hạnh phúc trở về với vòng tay quê hương được nhà thơ thể hiện chân thành, mộc mạc trong 9 khổ thơ tiếp theo, gợi lại kỷ niệm kháng chiến:
“Ở Tây Bắc! Mười năm đã qua ở Tây Bắc
Đây là nơi anh hùng, xứ rừng núi thần thánh
Nơi máu rơi, lòng ta thấm sâu đất
Giờ đã về đầu xuân mà bông trái chín đầy
… Anh ôm em cuối chiến dịch
Mang xôi đến nuôi quân giữa rừng
Thời gian ở Tây Bắc không biết bao giờ
Bữa xôi đầu còn toả mùi thơm trong lòng.”
Con người và khung cảnh hiện tại đã thay đổi, mười năm kháng chiến như “ngọn lửa” vẫn còn sống động trong lòng tác giả. Lúc này, tâm hồn cần sự an ủi, nghỉ ngơi bên gia đình để những nỗi nhớ trong lòng tan đi, “Cho con về gặp mẹ yêu thương”. “Mẹ” ở đây có thể là mẹ thiên nhiên, mẹ Tổ quốc thân thương. Những kỷ niệm về Tây Bắc vẫn rất sâu đậm trong tâm trí tác giả, với hình ảnh của “anh du kích”, “thằng em liên lạc”, người mẹ già tóc bạc, “bản sương giăng”, “đèo mây phủ”, tất cả tạo nên một bức tranh cụ thể, giàu ý nghĩa. Tình thương, sự che chở của đồng bào ở đây như thêm sức mạnh cho các chiến sĩ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chế Lan Viên đã phát hiện ra một quy luật đặc biệt trong tâm hồn con người: “Khi ta ở, đất chỉ là nơi ở/Khi đi, đất trở thành tâm hồn”. Ban đầu, khi chân đặt lên mảnh đất mới, mọi thứ đều xa lạ, đất chỉ là nơi ta sống. Nhưng thời gian trôi, từng cây cỏ, con người, từng khung cảnh đã in sâu vào trái tim ta, biến mảnh đất ấy trở nên thân thuộc, trở thành một phần của tâm hồn ta. Sự chuyển đổi này xuất phát từ tình yêu, gắn bó, đồng cảm của tâm hồn, biến mảnh đất lạ lẫm thành quê hương thứ hai.
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên không chỉ là tình cảm cá nhân mà còn là tình yêu với đất nước, quê hương. Nỗi nhớ sâu đậm, “như rét về mùa đông”, gắn bó “như keo sơn”, thơ mộng “như cánh kiến hoa vàng”. Tình yêu giữa anh và em đượm đà, nồng nàn, cháy bỏng trong không khí của Tây Bắc, chỉ cần nắm tay nhau đi qua những mùa chiến dịch. Tình yêu đã biến mảnh đất xa lạ thành quê hương thân quen, gần gũi như máu thịt, tâm hồn. Chế Lan Viên không ngần ngại miêu tả tình yêu một cách lãng mạn, sâu sắc, và tràn đầy màu sắc của núi rừng Tây Bắc.
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu - Mẫu 3
Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị. Ông sáng tác rất sớm và nổi tiếng với tập thơ Điêu tàn xuất bản năm 1937 và được đánh giá là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã từng viết: Với tôi tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau, đã từng cầu xin: Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa… để ẩn náu, trốn tránh mọi khổ đau, phiền não của cuộc sống. Sau Cách mạng, trong sự hóa thân kì diệu của đất nước và dân tộc, nhà thơ cũng đã làm một cuộc hóa thân để hòa nhập với cuộc sống xung quanh và cũng là tìm về với chính mình.
Hòa bình trở lại, nhân dân miền Bắc hăng hái bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống hòa bình, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Năm 1958, Đảng và Nhà nước ta phát động phong trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao. Phong trào này được nhân dân miền xuôi, đặc biệt là những địa phương đất chật người đông như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… hưởng ứng nhiệt tình. Thanh niên được coi là lực lượng tiên phong lên Việt Bắc, Tây Bắc khai hoang, xây dựng nông trường, thay đổi bộ mặt của chiến khu xưa.
Trong kháng chiến chín năm chống Pháp, nhà thơ Chế Lan Viên thường xuyên đi công tác nên được sống trong sự đùm bọc và tình yêu thương của đồng bào Việt Bắc, Tây Bắc. Tình cảm quý báu đó là nguồn cảm hứng để tác giả sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu. Bài thơ vừa là khúc hát say mê, rực rỡ của một hồn thơ đã vượt ra khỏi giới hạn cá nhân để đón nhận với thế giới lớn lao của nhân dân, đất nước; vừa thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và nỗi nhớ da diết của nhà thơ về Tây Bắc – quê hương thứ hai, nơi có những con người đã chia sẻ khó khăn, cùng chung sống với tác giả trong thời kì kháng chiến.
Bài thơ được tổ chức theo sự phát triển của tâm trạng. Giọng điệu và cảm xúc thay đổi theo tiến trình tâm trạng. Hai đoạn đầu là sự suy tư và lời mời gọi ra đi. Chín đoạn giữa thể hiện mong muốn trở về với nhân dân, khơi gợi kí ức kháng chiến đầy ý nghĩa với nhân dân và đất nước. Bốn đoạn cuối là bài hát về hành trình nhiệt huyết, niềm tin và say mê.
Bốn câu thơ mở đầu là tóm tắt ý nghĩa và cảm xúc của bài thơ, đã tóm tắt ý kiến và tình cảm của tác giả:
Tây Bắc ư? Có gì đặc biệt ở Tây Bắc
Khi tâm hồn ta đã là những con tàu
Khi Tổ quốc vang lên khúc hát từ mọi phương hướng
Tâm hồn ta thuộc về Tây Bắc, còn gì nữa.
Câu hỏi nhỏ nhoi: Tây Bắc ư? là câu hỏi lồng trong lòng, chứa đựng nỗi lo âu, suy tư thực sự trong tâm trạng của nhà thơ riêng và cả tầng lớp nghệ sĩ trong thời kỳ lịch sử đó.
Hai khổ đầu là lời thúc giục với những câu hỏi đầy sức ép. Nhà thơ chọn hình ảnh của con tàu và địa danh Tây Bắc làm biểu tượng nghệ thuật cho bài thơ:
Con tàu này hướng về Tây Bắc, anh có muốn đi cùng không ?
Bạn bè rời xa, nhưng anh ở lại với bầu trời Hà Nội
Anh có cảm nhận gió ngàn thét gọi không ?
Bên ngoài cửa sổ? Tàu đang mong chờ ánh trăng mờ.
Đất nước rộng lớn, cuộc đời anh nhỏ bé
Tàu gọi anh đi, sao anh chưa ra đi ?
Không có lý do nào giữ anh lại trong lòng khép kín
Tâm hồn anh đang chờ gặp anh ở bên kia.
Nhà thơ so sánh tâm hồn mình như một con tàu đang tiến về phía trước, với điểm đến là đất nước, là nhân dân vĩ đại và cao quý, là cuộc sống phong phú và cảm hứng nuôi dưỡng tinh thần nghệ sĩ.
Con tàu ở đây là biểu tượng cho khao khát khám phá, khám phá những nơi xa xôi, những con người, đất nước, và cũng là khám phá những giấc mơ, nguồn cảm hứng nghệ thuật.
Trong thời điểm đó, không có tàu đến Tây Bắc, vì vậy hình ảnh của con tàu trong bài thơ hoàn toàn mang tính biểu tượng. Đó là con tàu trong tâm trí, đầy khát khao hòa nhập với dân tộc, đất nước và niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Chế Lan Viên đã sử dụng hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng khám phá của mọi người. Sự mong chờ tìm kiếm những chân trời rộng lớn: Anh có cảm nhận gió ngàn thét gọi không? Bên ngoài cửa sổ? Tàu đang mong chờ ánh trăng mờ. Nhà thơ nói với người khác nhưng cũng là tự nhủ với lòng mình.
Sau khi chiến thắng giặc, đất nước cần mỗi người đóng góp. Hãy bước ra khỏi cái tôi và hòa mình với mọi người. Đi theo con đường ấy, bạn có thể tìm thấy nghệ thuật thật sự và gặp gỡ tâm hồn thật của mình trong cuộc sống đồ sộ của nhân dân.
Trong lòng không còn chỗ cho thơ
Con tâm hồn đợi chờ gặp lại chính mình trên cao.
Chế Lan Viên đã khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống thực, vì cuộc sống phong phú và đa dạng chính là nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ. Điều này cho thấy một phong cách mới hoàn toàn của Chế Lan Viên, khác biệt hoàn toàn so với nhà thơ lãng mạn trước Cách mạng, người lúc đó đắm chìm trong sự tuyệt vọng và sự bế tắc của cuộc sống.
Tây Bắc không chỉ là một vùng đất cụ thể mà còn là biểu tượng cho mọi nơi xa xôi của Tổ quốc, nơi có cuộc sống gian khổ và nặng nề, nơi lưu giữ những kỷ niệm đáng nhớ của những người đã trải qua cuộc kháng chiến, nơi vẫn đang kêu gọi mọi người cùng nhau xây dựng lại quê hương.
Đến với Tây Bắc, mảnh đất đầy ý nghĩa là đến với những người đã che chở, đùm bọc chúng ta trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, tiếng gọi đến Tây Bắc cũng là tiếng gọi đến lòng mình, đến với tình cảm chân thành và trong sáng.
Nếu hai khổ thơ đầu thể hiện sự trăn trở và lời mời gọi lên đường, thì chín khổ thơ tiếp theo là biểu hiện của niềm hạnh phúc và khát vọng trở về với nhân dân, gợi lại những kỷ niệm sâu sắc và đầy ý nghĩa trong những năm kháng chiến; xen kẽ những hình ảnh lấp lánh của ký ức là những trải nghiệm sâu sắc, rút ra từ những câu thơ trầm lắng.
..............
Mời bạn đọc tham khảo chi tiết trong tệp dưới đây!