Bức Tranh Tứ Bình, Hay Còn Gọi Là Bốn Mùa Trong Bài Việt Bắc Đã Trở Thành Đề Tài Thú Vị Đối Với Các Nhà Phê Bình Và Nhà Thơ. Hãy Cùng Khám Phá Và Phân Tích Chi Tiết Về Nó Qua Những Mẫu Văn Cảm Nhận Dưới Đây.
Tổng Hợp Những Mẫu Văn Phân Tích Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Việt Bắc Của Tố Hữu
I. Cấu Trúc Văn Bản Bức Tranh Tứ Bình Việt Bắc
1. Khởi Đầu
- Giới Thiệu Về Tác Giả Tố Hữu: Là Một Nhà Thơ Vĩ Đại, Một Tinh Hoa Của Thơ Chính Trị, Tác Phẩm Của Ông Luôn Phản Ánh Sự Đấu Tranh Khốc Liệt Của Dân Tộc.
- Giới Thiệu Về Bài Thơ Việt Bắc: Là Tác Phẩm Xuất Sắc Nhất Của Tố Hữu, Tổng Kết Lại Cuộc Chiến Anh Hùng Của Dân Tộc, Là Sự Tri Ân Sâu Lắng Về Tình Yêu Cách Mạng.
- Bức Tranh Tứ Bình Được Coi Là Bức Tranh Thơ Tuyệt Vời Trong Bài Thơ Việt Bắc.
2. Phân Tích Bức Tranh Tứ Bình Thiên Nhiên Việt Bắc
* Tổng Quan Về Bài Thơ Việt Bắc
- Bối Cảnh Sáng Tác: Trong Bối Cảnh Chiến Dịch Điện Biên Phủ Chiến Thắng, Khi Trung Ương Đảng Và Chính Phủ Rời Bỏ Chiến Khu Từ Việt Bắc Đến Thủ Đô, Tố Hữu Sáng Tác Bài Thơ Này.
- Câu Thơ Trong Bức Tranh Tứ Bình Là Lời Thương Nhớ Của Người Lữ Khách Đến Người Thụ Thác.
- Hai Câu Thơ Đầu Của Đoạn Thơ Là Lời Ướm Hỏi Của Người Đi Để Bày Tỏ Tâm Tư, Nỗi Nhớ Về Thiên Nhiên Và Con Người Việt Bắc.
* Điểm Quan Trọng 1: Bức Tranh Mùa Đông
- 'Rừng Xanh Hoa Chuối Đỏ Tươi': Sử Dụng Bút Pháp Chấm Pháp: Nổi Bật Trên Nền Xanh Rộng Lớn Của Núi Rừng Là Màu Đỏ Của Hoa Chuối (Màu Đỏ Hoa Chuối Gợi Liên Tưởng Đến Hình Ảnh Ngọn Đuốc Xua Đi Cái Lạnh Của Của Núi Rừng Mùa Đông) Và Màu Vàng Của Những Đốm Nắng.
- 'Đèo Cao Nắng Ánh Dao Gài Thắt Lưng': Hình Ảnh Tia Nắng Chiếu Lên Từ Con Dao Gài Thắt Lưng Gợi Dáng Vẻ Khỏe Khoắn, Lớn Lao Của Người Lao Động, Với Tâm Thế Làm Chủ Thiên Nhiên, Cuộc Sống.
* Điểm Quan Trọng 2: Bức Tranh Mùa Xuân
- 'Mùa Xuân Rung Động Với Sắc Trắng Tinh Khôi Của Hoa Mơ Nở Trên Rừng': Một Khung Cảnh Tràn Đầy Sức Sống Khi Xuân Về.
- Người Lao Động Hiện Lên Với Vẻ Đẹp Tài Hoa, Khéo Léo Và Cẩn Mẫn: 'Nhớ Người Đan Nón Chuốt Từng Sợi Giang', 'Chuốt Từng Sợi Giang': Hành Động Chăm Chút, Tỉ Mỉ Với Từng Thành Quả Lao Động Của Mình.
* Quan Điểm 3: Bức Tranh Mùa Hạ
- 'Ve Kêu Rừng Phách Đổ Vàng': Toàn Bộ Khung Cảnh Thiên Nhiên Như Đột Ngột Chuyển Sang Sắc Vàng Qua Động Từ 'Đổ'
Có Thể Liên Tưởng Màu Vàng Hòa Quyện Với Tiếng Ve Kêu Tưng Bừng, Đầy Sức Sống
Cũng Có Thể Chính Tiếng Ve Đã Đánh Thức Rừng Phách Nở Hoa.
- 'Nhớ Em Gái Hái Măng Một Mình': 'Cô Em Gái' - Cách Gọi Thể Hiện Sự Trân Trọng, Yêu Thương Của Tác Giả Với Con Người Việt Bắc, Hình Ảnh Cô Gái Hái Măng Một Mình Thể Hiện Sự Chăm Chỉ, Chịu Thương Chịu Khó Của Con Người Việt Bắc.
* Quan Điểm 4: Bức Tranh Mùa Thu
- 'Rừng Thu Trăng Rọi Hòa Bình': Ánh Trăng Nhẹ Nhàng Chiếu Sáng Núi Rừng Việt Bắc, Đó Là Ánh Sáng Của 'Hòa Bình', Niềm Vui Và Tự Do.
- Con Người Say Sưa Cất Tiếng Hát, Mộc Mạc, Chân Thành, Có Tấm Lòng Thủy Chung, Nặng Ân Tình.
* Đánh Giá Chung:
- Nêu Cảm Nhận Chung Về Bức Tranh Tứ Bình: Nghệ Thuật Tứ Bình Tạo Sự Cân Đối Hài Hòa Và Có Tác Dụng Khắc Họa Toàn Diện Vẻ Đẹp Của Đối Tượng, Bốn Bức Tranh Trên Tôn Lên Giá Trị Của Nhau, Không Thể Tách Riêng, Chúng Là Bức Tranh Tuyệt Sắc Có Sự Hòa Quyện Giữa Con Người Và Thiên Nhiên.
3. Tổng Kết
- Tóm Lược Những Nét Nghệ Thuật Đặc Sắc Và Phong Cách Thơ Tố Hữu: Tính Dân Tộc Đậm Đà (Thể Thơ Lục Bát, Kết Cấu Đối Đáp Trong Văn Học Dân Gian, Ngôn Ngữ Giản Dị, Hình Ảnh Thơ Gần Gũi, Giọng Thơ Thiết Tha.)
- Đánh Giá Giá Trị Nội Dung Toàn Bài Thơ: Là Khúc Hùng Ca Và Khúc Tình Ca Về Cách Mạng, Về Cuộc Kháng Chiến Và Con Người Kháng Chiến.
II. Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Bức Tranh Tứ Bình Việt Bắc
Bài Số 1
Với Giọng Điệu Tâm Tình, Ngọt Ngào, Tha Thiết, Những Áng Thơ Văn Tố Hữu Để Để Lại Trong Lòng Người Đọc Nhiều Xúc Cảm Lắng Sâu. 'Việt Bắc' Là Một Bài Thơ Nổi Tiếng Tác Giả Viết Năm 1954. Cảm Xúc, Hình Ảnh, Nghĩ Suy Trong Tác Phẩm Mà Nhà Thơ Gửi Tới Người Đọc Khiến Cho Ta Càng Thêm Yêu Mến Và Trân Quý Tâm Hồn, Tài Năng Tố Hữu. Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Cũng Là Một Nét Đặc Sắc Đã Lưu Lại Trong Tâm Trí Người Đọc Nhiều Ấn Tượng.
Tâm Trạng Sâu Lắng Trong Bức Tranh Tứ Bình Về Con Người Và Cảnh Vật Thiên Nhiên Tây Bắc, Trước Hết Đó Là Sự Phác Họa Những Nét Cảnh Mùa Đông:
'Ta Về, Mình Có Nhớ Ta
Ta Về Ta Nhớ Những Hoa Cùng Người
Rừng Xanh Hoa Chuối Đỏ Tươi
Đèo Cao Nắng Ánh Dao Gài Thắt Lưng'
Một Mùa Đông Rực Rỡ Và Ấm Nồng Nơi Núi Rừng Tây Bắc Đã Được Nhà Thơ Phác Họa Một Cách Sinh Động. Đó Là Mùa Đất Trời Nơi Đây Tràn Ngập Sắc 'Đỏ', 'Tươi' Rực Rỡ Của Hoa Chuối Rừng Trên Nền Xanh Trầm Tĩnh Của Cỏ Cây Rừng Lá, Của Ánh Nắng Ấm Áp Lửng Lơ, Tràn Ngập Khắp Không Gian Khoáng Đạt. Trên Cái Nền Thơ Mộng Ấy, Con Người Việt Bắc Xuất Hiện Với Vẻ Đẹp Khỏe Khoắn Trong Tư Thế Lao Động: 'Dao Gài Thắt Lưng'. Hai Từ 'Nắng Ánh' Khiến Lời Thơ Tố Hữu Như Bừng Sáng, Góp Phần Làm Nổi Bật Hơn Vẻ Đẹp Của Con Người Trong Lao Động, Những Con Người Đang Trong Tư Thế Vươn Lên Đỉnh Đèo. Mùa Đông Trong Thơ Xưa Thường Diễn Tả Cái Tiêu Điều, Hiu Quạnh, Những Cơn Gió Lạnh Và Một Bầu Không Khí Man Mác Buồn. Đông Hồ Từng Viết:
'Nhớ Đến: Một Sáng Ngày Mùa Đông
Gió Bấc Ương Ào Ào Vang Lên Tiếng Hò Hẹn
Qua Khe Cửa Sổ, Gió Thổi Và Rú Lên
Chỉ Nghe Tiếng Gió Lạnh Lùng Mà Thôi
Hoặc Như Nhà Thơ Ngô Chi Lan Tâm Sự:
'Bên Cạnh Lò Sưởi, Ngọn Lửa Hồng Lên Sưởi Ấm
Uống Rượu Giải Buồn Trong Lòng Mùa Sầu Đông
Tuyết Rơi Lạnh Lùng Ôm Trọn Bên Cửa Sổ
Gió Thổi Mạnh Băng Giải Bề Mặt Sông
Nỗi Buồn, Nỗi Sầu Ấy, Mùa Đông Không Đặt Chân Tới. Thơ Tố Hữu Mô Tả Về Mùa Đông Tây Bắc Với Sự Sống Đầy Màu Sắc, Ấm Áp. Con Người Trong Khung Cảnh Đó, Mạnh Mẽ Và Tự Chủ.
'Ngày Xuân Mơ Nở Trắng Rừng
Nhớ Người Đan Nón, Chuốt Sợi Sợi Giang
Đây là cặp câu thơ tiếp theo trong dòng lục bát mà nhà thơ mô tả về thiên nhiên và con người ở Việt Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ 'nở trắng rừng' đã làm cho trái tim người đọc xao xuyến. Trên cảnh đẹp đó, con người hiện ra trong cuộc sống giản dị hàng ngày. Động từ 'chuốt' tinh tế làm nổi bật vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao của thiên nhiên, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa quyện tạo nên ý thơ đặc sắc của Tố Hữu.
Nhà thơ Bàng Bá Lân đã diễn đạt suy tư của mình qua những dòng thơ trong bài 'Trưa Hè':
'Bầu Trời Trong Xanh Không Một Gợn Mây
Đồng Cỏ Mịt Mùi Cắt Bời Dưới Ánh Nắng
Biển Lúa Êm Đềm Lượn Sóng Trắng Bên Dòng
Tiếng Hòa Nhạc Xa Xăm Lời Vang Lên Từ Đường Phố
Quán xưa vẫn im ắng dưới ánh nắng
Bà chủ thong thả, khách ngủ say sưa
Mồ hôi chảy ròng ròng như tắm vậy
Đứng ngắm mây trôi, cánh diều vờn bay'
Đối với Bàng Bá Lân, mùa hè là thế, yên bình và đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè ở Việt Bắc là:
'Ve kêu rừng, phách đổ sắc vàng
Nhớ đến em gái hái măng một mình'
Sắc màu rực rỡ của rừng phách và tiếng ve râm ran được nhà thơ phản ánh chân thực. Từ 'đổ' trong câu thơ như một điểm nhấn cho sự sống động của cảnh vật. Có lẽ, nhà thơ muốn nói đến sự tương tác đặc biệt giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh vật trở nên sống động và có linh hồn. Người Việt Bắc hiện ra một cách lặng lẽ nhưng đầy hiền hòa, như một điểm nhấn yên bình giữa sự sôi động của thiên nhiên mùa hạ.
Mặc dù được nhắc đến cuối cùng, cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn làm cho người đọc ấn tượng và cảm thấy lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo, trong sáng dưới ánh trăng. Đó là những điều mà chúng ta cảm nhận qua hai câu thơ:
'Rừng thu dưới ánh trăng tỏa sáng hòa bình
Nhớ những người hát ca ân tình chân thành'
Trên nền thiên nhiên hiền hòa ấy, con người hiện ra với tình thương và lòng trung thành, là biểu tượng của tình yêu và sự hy sinh trong cuộc cách mạng.
Để mô tả vẽ bức tranh tứ bình về cảnh thiên nhiên và cuộc sống của người Việt Bắc, tác giả đã sử dụng một cách khéo léo kết hợp giữa phong cách viết cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài năng đó đã làm cho bức tranh tứ bình trong 'Việt Bắc' trở nên đặc biệt và lưu trữ trong lòng người đọc qua các thế hệ, tạo ra sự đa dạng cho thơ và văn viết về 'bức tranh tứ bình'.
Bài thơ số 2
Khi nói về Việt Bắc, chúng ta không thể không nhắc đến nguồn cội của cách mạng, đất nước nghèo khó nhưng vẫn đầy tình yêu thương - nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm về thời kỳ cách mạng đầy gian khổ nhưng cũng đầy hào hùng, làm cho lòng ta xúc động và nao lòng mỗi khi nhớ về nó.
Và như thế, những dòng ký ức, những dòng tình yêu cứ mãi xoay vần như tiếng gọi 'Ta - mình' của những người yêu nhau. Theo như câu thơ của Chế Lan Viên 'Khi ta ở nơi đất, đó chỉ là nơi ở/ Khi ta rời đi, đất ấy trở thành tâm hồn của ta'. Đúng vậy! Việt Bắc đã trở thành tâm hồn đậm chất yêu thương trong thơ của Tố Hữu, với những từ ngữ như những giai điệu âm nhạc vang vọng, với hình ảnh của người và cảnh đẹp đẽ, đầy kỷ niệm và tình thân mến không bao giờ phai mờ.
'Khi ta quay trở lại, ta không thể quên ta
Khi ta về, ta không thể quên những bông hoa và những người ấy
Rừng um tùm, hoa chuối rực đỏ
Đèo cao nắng gay gắt, khe lưng gòn
Xuân về, rừng trắng mơ màng
Nhớ người làm nón, nhúc nhích từng sợi rơm
Ve râm rầm, rừng hiên ngang vàng óng
Nhớ em gái, lặng lẽ hái măng trong rừng
Rừng thu, trăng sáng soi đường yên bình
Nhớ ai, giọng hát chân thành, tình yêu trọn vẹn
Tố Hữu, nhà thơ mang tâm hồn lãng mạn và chính trị, tác phẩm của ông thể hiện những cảm xúc cách mạng một cách nhẹ nhàng và sâu sắc. Việt Bắc là chủ đề được ông khắc họa một cách tinh tế nhất, là biểu tượng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này được viết vào tháng 10/1954, khi các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Chính phủ, cùng Bác Hồ và những người lính kháng chiến trở về từ 'Thủ đô gió ngàn' đến 'Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình'. Toàn bộ bài thơ là một dòng chảy của kỷ niệm và tình yêu thương dành cho những năm tháng đầy gian khổ nhưng cũng đầy hào hùng tại Việt Bắc. Trong đó, phần tác phẩm nổi bật nhất có lẽ là đoạn miêu tả bức tranh tứ bình, mô tả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
Bắt đầu với hai dòng thơ giới thiệu cảm xúc chung của tác phẩm:
'Khi quay trở lại, ta không thể không nhớ về mình
Khi trở về, ta không thể không nhớ những bông hoa và người ấy'
Câu đầu dùng câu hỏi mở đầu 'mình còn nhớ không?', câu sau tự trả lời, âm 'a' nhấn mạnh tạo hiệu ứng âm nhạc dịu dàng. Tố Hữu không chỉ nhớ về những ngày gian khổ với 'nửa chăn sui và bát cơm', mà còn nhớ về vẻ đẹp của Hoa và Con Người Việt Bắc. Ở đây, hoa tượng trưng cho sự tươi đẹp của thiên nhiên, còn Con Người là biểu tượng của sự kiên cường và lòng yêu nước. Hoa và Con Người hòa quyện với nhau tạo nên nét đặc trưng, sức sống của vùng đất này. Điều đó tạo nên cấu trúc độc đáo cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu sáu nhớ về hoa, câu tám nhớ về con người, mỗi câu đều mang một màu sắc riêng biệt.
Khi nhắc đến mùa đông, thường là nhớ đến cái lạnh, cái u ám của ngày mưa gió. Nhưng trong thơ Tố Hữu, mùa đông lại ấm áp và lạ thường:
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực rỡ
Đèo cao, nắng chiếu lên tạo bóng dáng'
Màu đỏ của hoa chuối nổi bật giữa bức tranh màu xanh rậm rạp của rừng, tạo nên cảm giác tươi sáng, ấm áp và tràn đầy sức sống. Câu thơ gợi nhớ đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
'Thạch lựu hiên vẫn đỏ phân hoa
Hương liên trải phôi mùi hương thơm
Từ liên tưởng đó, mùa đông trong thơ Tố Hữu không chỉ lạnh buốt mà còn ấm áp như mùa hè với màu đỏ của hoa chuối như đang lan tỏa từ trong lòng núi rừng xanh.
Cùng với sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối là hình ảnh của con người Việt Bắc, lên núi làm ruộng, canh tác ra lúa khoai để đóng góp cho cuộc chiến kháng Pháp. Trước vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên, con người trở nên vĩ đại, hùng vĩ hơn bao giờ hết. Trong đó, ánh sáng mặt trời chiếu xuống lưỡi dao rừng như một nét tinh tế nhất, con người trở thành trung tâm của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Mùa đông qua, mùa xuân lại đến. Khi nhắc đến mùa xuân, ta nghĩ ngay đến sức sống mới của cây cỏ, hoa lá, của muôn loài tỉnh giấc sau mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Bắc cũng vậy:
'Ngày xuân tựa như trắng sáng rừng
Nhớ người làm nón, từng sợi vắt vẻo'
Mùa xuân phủ một màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ khắp rừng: 'Ngày xuân, mơ màng trắng rừng'. Động từ 'trắng' nhấn mạnh vào màu sắc, làm cho màu trắng lấn át mọi màu xanh của lá, làm cho khu rừng sáng lên bởi sắc trắng mơ màng, dịu mát của hoa mơ. Động từ 'nở' lan tỏa sức sống mùa xuân. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng, năm 1941 Việt Bắc cũng chào đón Bác Hồ trong hoa mơ:
'Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới mơ màng hoa mơ
Bác về, im lặng, chim hót reo
Bờ lau vui mừng, thánh thót ngơ ngác'
Mùa xuân thêm phần rực rỡ với hình ảnh con người 'chuốt từng sợi giang'. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hàng ngày. Từ 'chuốt' và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Tiếng ve vang vọng khắp rừng, mùa hè tới, bức tranh Việt Bắc trở nên sống động hơn bao giờ hết:
'Ve kêu rộn ràng, rừng phách vàng lá
Nhớ cô em gái mình đi hái măng một mình'
Khi ve kêu, rừng phách lại chuyển sang màu vàng. Động từ 'đổ' diễn tả sự rực rỡ của hoa phách vào đầu hè. Màu vàng của cây phách làm cho ánh nắng mùa hè và tiếng ve trở nên sáng sủa hơn. Đây là một bức tranh tươi sáng, rộn ràng, được vẽ bằng hoài niệm. Tố Hữu không chỉ miêu tả vẻ đẹp của từng mùa mà còn miêu tả sự biến đổi của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ, ta thấy sự chuyển đổi sống động của thời gian: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè và rừng phách chuyển sang màu vàng. Điều này thể hiện tính dân tộc đặc trưng.
Trong cảnh sắc rực rỡ ấy, cô gái mặc áo chàm cần mẫn hái măng để cung cấp cho quân đội kháng chiến: 'Nhớ cô em gái hái măng một mình'. Hình ảnh này không chỉ gợi lên sự mộng mơ, gần gũi mà còn thể hiện sự cần cù, chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, là biết bao niềm đồng cảm và trân trọng từ tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng trong chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo, mát lành:
'Rừng thu dưới ánh trăng tỏa sáng hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình trung thành'
Không gian rộng lớn lung linh dưới ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình sáng rực lên từng ngóc ngách của núi rừng, từng làng quê Việt Bắc. Chúng ta còn nhớ mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
'Trăng qua cửa sổ yêu cầu thơ
Quân đang làm việc, hãy đợi đến ngày mai
Chuông lầu đột nhiên reo gọi thu tỉnh giấc
Tin về chiến thắng từ khu liên báo về'
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận mà lại vọng lên tiếng hát. Đó là âm nhạc trong trẻo của những người dân tộc, là âm nhạc gợi nhớ đến tình thân thủy chung. Đó cũng chính là âm nhạc của Việt Bắc, của núi rừng, của tình yêu mười lăm năm gắn bó không ngừng.
Đúng vậy! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã hoàn thiện bức tranh tuyệt vời của núi rừng và kết thúc đoạn thơ bằng âm nhạc của tình thân thủy chung, khiến người đọc cảm thấy rung động sâu xa bởi tình yêu với quê hương đất nước.
Với những nét vẽ đơn giản nhưng sâu lắng, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ của Tố Hữu đã làm nổi bật bức tranh về cảnh và con người qua bốn mùa ở chiến khu Việt Bắc. Cảnh vật và con người hoà quyện với nhau, tạo ra một bức tranh gần gũi, sống động, và đầy hồn hương hơn. Tất cả đã chảy vào trong lòng những người cán bộ trở về.
Bài thơ thứ ba
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của phong trào thơ ca Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các tác phẩm của ông như một vũ khí, chống lại sự xâm lược, động viên và khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân.
Tác phẩm 'Việt Bắc' được sáng tác trong những ngày tác giả cống hiến ở miền Việt Bắc. Bài thơ thể hiện lòng gắn bó chặt chẽ, sâu đậm giữa quân và dân, khi chia tay người ở lại với người ra đi, với biết bao nỗi niềm, luyến tiếc. Lúc chia tay, tác giả lưu lại những dòng thơ đong đầy cảm xúc, đậm chất tâm tư tình cảm.
Dòng chảy cảm xúc trong bài thơ thể hiện mối liên kết, sự chân thành giữa người và người, giữa quân và dân, sâu sắc đến lòng. Tác giả Tố Hữu là một người tham gia kháng chiến chống Pháp. Do đó, những dòng thơ của ông rất giản dị, mộc mạc, gần gũi. Đọc bài thơ, ta có thể cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng nề tâm hồn trong tình cảm của người lính.
Bài thơ 'Việt Bắc' tuân thủ hình thức lục bát truyền thống, gần gũi với người đọc. Trong tác phẩm, sự so sánh, ẩn dụ được tác giả Tố Hữu sử dụng một cách linh hoạt, tinh tế, thể hiện sự tinh tế trong ngôn ngữ. Đặc biệt, bức tranh mùa thu Việt Bắc được phác họa mang đến nỗi xúc động lòng người.
Chúng ta về, ta nhớ chính mình
Ta về, nhớ hoa cùng bạn
'Ta' và 'chúng ta' biểu hiện tình quân dân, bằng ngôn từ mộc mạc, thể hiện sự kết nối như người thân trong gia đình, như những người bạn tri kỷ. Nay phải xa cách, đọa đầy nỗi nhớ, tiếc nuối không nỡ nói lời chia ly.
Tố Hữu đã tài tình dẫn dắt ta đến với những cảnh đẹp tuyệt vời của núi rừng Việt Bắc, vẽ nên một mùa đông ấm áp, tràn ngập tình thương và hy vọng của những người dân hiền lành ở đây.
Rừng xanh, hoa chuối đỏ nở rộ
Đèo cao, nắng lấp lánh như lưỡi dao
Thiên nhiên Việt Bắc mở ra trước mắt, làm cho ta ngạc nhiên, bởi vẻ đẹp tinh tế của núi rừng Tây Bắc. Bông hoa chuối đỏ nở giữa mùa đông lạnh buốt, tạo nên khung cảnh thiên nhiên sống động, ấm áp bởi sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối rừng. Hình ảnh cô gái hái măng, lấy nấm bằng con dao sắc bén, là biểu tượng của sự sinh động trong cuộc sống hàng ngày.
Ánh nắng mùa đông làm không khí trở nên ấm áp, không phải u ám như những bài thơ khác. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, sống động và lôi cuốn hơn bao giờ hết.
Ngày xuân, rừng trắng bừng nở hoa
Khắc sâu trong lòng hình ảnh người đan nón chuốt từng sợi giang
Tác giả đã linh hoạt chuyển đổi từ mùa đông sang mùa xuân trong hai câu thơ này
Hoa mơ là dấu hiệu của mùa xuân, mang đến hương thơm dịu dàng và quyến rũ
Thiên nhiên tươi đẹp luôn gắn bó với con người ở nơi này
Tiếng ve rộn ràng, rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve râm ran, mùa hè đã đến
Bức tranh mùa hè của núi rừng Việt Bắc rực rỡ với màu vàng của hổ phách và tiếng ve kêu huyên náo
Bài số 4
Tố Hữu - Giọng thơ đầy tính chiến đấu, chất trữ tình
'Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Trong rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi nở
Đèo cao, nắng ánh, dao gài thắt lưng
Ngày xuân, rừng trắng mơ màng nở hoa
Nhớ người, đan nón, chuốt sợi giang mảnh
Ve vang, rừng phách, đổ vàng khắp nơi
Nhớ cô em, một mình hái măng dưới rừng
Rừng thu, trăng rọi, hòa bình trên cao
Nhớ ai, tiếng hát, ân tình, thủy chung
Trong bài thơ là hình ảnh Việt Bắc mùa mùa,
'Ta về, nhớ ta
Ta về, nhớ hoa, nhớ người gần xa'
Hai câu thơ ngợi khen, tôn vinh mảnh đất nước
'Rừng xanh, hoa chuối, đỏ rực tươi
Đèo cao, nắng chan hòa, ánh dao, thắt lưng
Mùa đông, màu xanh muôn trùng trắng
Những bông hoa, chuối đỏ tươi nổi bật
Sương mờ, như đuốc hồng lung linh
Đỏ thắm, hồng liên, khoe hương thơm
Giữa tự nhiên ấy, vẻ đẹp của con người Tây Bắc tỏa sáng với một nét độc đáo riêng biệt:
'Trên đèo cao, nắng chan hòa, dao gài thắt lưng'
Người Tây Bắc khi ra rừng luôn mang theo một con dao gài ở thắt lưng để chiếu sáng đường đi và đề phòng thú dữ. Tác giả không chỉ tả vẻ đẹp của con người mà còn tả ánh sáng phản chiếu trên lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời làm cho con dao phát ra ánh sáng tạo nên hình ảnh đẹp mắt, cho thấy con người như một điểm sáng trong tự nhiên, vừa rực rỡ vừa lung linh. Họ đứng giữa 'đèo cao, nắng chan hòa', trở thành trung tâm của vẻ đẹp tự nhiên, là chủ nhân của đất nước, hình ảnh vĩ đại và lớn lao.
Đông đã qua, tới lượt xuân. Mùa xuân ở Tây Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm rực sáng cả khu rừng:
'Ngày xuân, hoa mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang'
Khi nhắc đến mùa xuân, không thể không nghĩ đến sự tươi mới của tự nhiên, khi mà cây cỏ bắt đầu nảy mầm, lá xanh non mọc lên khắp nơi. Mùa xuân ở Việt Bắc như một bức tranh mơ màng, nơi mà hoa mơ trắng bao phủ cả rừng. Đó là khoảnh khắc tuyệt vời mà Tổ Hữu đã diễn đạt bằng cách nói về 'mơ nở trắng rừng'.
Trong cánh rừng trắng của hoa mơ, chúng ta nhìn thấy hình ảnh một người lao động cẩn thận và nhẹ nhàng. Hình ảnh đó như một minh chứng cho sức mạnh và sự tài năng của con người Việt Bắc, với đôi bàn tay khéo léo 'chuốt từng sợi giang'.
Mùa hè đến, tiếng ve reo vang khắp núi rừng:
'Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình'
Âm thanh của ve như làm cho cả rừng phách biến thành màu vàng. Hình ảnh của một cô gái hái măng một mình, trong nỗi lặng lẽ nhưng đầy đủ sức sống, đã tạo nên một bức tranh tươi sáng và đáng yêu trong lòng người Việt Bắc.
Mùa thu đến, ánh trăng len lỏi qua những cành cây, tô điểm cho cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên thơ mộng và yên bình. Trong bầu không khí dịu dàng của đêm trăng thu, tiếng hát ân tình của những người con Việt Bắc lại vang lên, mang lại cảm giác ấm áp cho mọi người:
'Rừng thu trăng sáng tỏa hòa bình
Nhớ người với tiếng hát truyền tình'
Ở đây, không có cuộc chiến, chỉ có những khúc hát chân thành của bà con Việt Bắc, tiếng hát của núi rừng Tây Bắc đã gắn bó hàng chục năm qua. Tiếng hát 'truyền tình' kết thúc một bức tranh về thiên nhiên và con người, khiến cho mỗi người, bất kể đi hay ở, đều cảm nhận được tình yêu sâu đậm dành cho Tổ quốc.
Nếu phong cảnh là câu chuyện, thì con người chính là ngôn từ. Sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn của con người Việt Bắc đã tạo nên một bức tranh đầy màu sắc và ý nghĩa. Phong cảnh tươi đẹp của Việt Bắc đã làm nổi bật những người dân chân chất, giàu lòng trung hiếu, trung thành và kiên cường.
Với những nét vẽ đơn giản, giản dị, bức tranh về Việt Bắc được tô điểm bằng sự kết hợp hài hòa giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và thiên nhiên, tạo nên một tác phẩm toàn diện về cuộc sống và môi trường. Đoạn thơ là điểm nhấn trong phong cách văn hóa và chính trị của Tố Hữu, khiến cho mỗi khi nhắc đến Việt Bắc, chúng ta lại nhớ ngay đến những trái tim hồn nhiên, giàu lòng yêu nước và kiên cường.
Chương 5
'Việt Bắc' - một tác phẩm thơ lục bát, với 150 câu thơ, tràn đầy cảm xúc mãnh liệt. Xuất hiện vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội, bài thơ này của Tố Hữu thể hiện một cách sâu sắc mối tình đặc biệt dành cho Việt Bắc, mối tình đồng lòng với cuộc cách mạng và kháng chiến.
Trích từ câu thứ 43 đến câu thứ 52 của bài thơ 'Việt Bắc', những dòng thơ này tả lại biết bao nỗi nhớ sâu sắc và trung thành đối với Việt Bắc:
'Trong lòng ta, có một nỗi nhớ không thể nào quên,
Nhớ đến tiếng hát ân tình thủy chung nơi Việt Bắc'.
Đây là lời tự hỏi - tự trả lời của một người chiến sĩ trên đường về, họ tự hỏi lòng mình 'có nhớ đến chính mình không'. Dù ở xa xôi, dù bao nhiêu gian nguy nhưng tình cảm với Việt Bắc vẫn mãnh liệt: 'Trong lòng ta, có nhớ đến những kỷ niệm bên Việt Bắc'. Sự nhớ ấy không chỉ đối với 'những kỷ niệm bên Việt Bắc', mà còn là với cả thiên nhiên và con người của vùng đất này.
'Khi trở về, lòng ta nhớ đến chính mình,
Trong trái tim, ta mãi nhớ về những khoảnh khắc bên người'.
Các từ 'ta - mình' được lặp lại nhiều lần trong bài thơ, nhưng đặc biệt ở hai câu này, chúng tạo ra một bức tranh đẹp về tình yêu lứa đôi trong lòng Việt Bắc, làm cho âm điệu của thơ trở nên ấm áp như tiếng hát giao duyên. Đây là sự kết hợp giữa sắc điệu trữ tình và bản sắc dân tộc trong thơ của Tố Hữu.
Tiếp theo là tám cặp lục bát, mỗi cặp mô tả một cảnh đẹp cụ thể trong bốn mùa: đông, xuân, hè, thu.
Nhớ mùa đông, nhớ sắc xanh của rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ rực của hoa chuối như ngọn lửa sưởi ấm rừng xanh. Nhớ người đi nương, với chiếc dao gài thắt lưng, đứng vững trên đèo cao, ánh nắng mặt trời... Con dao của họ phản chiếu ánh sáng mặt trời rất hấp dẫn:
'Rừng xanh, hoa chuối sáng rực
Đèo cao nắng phơi phới, gió thoảng mát mẻ.
Màu lá xanh rì của rừng, màu hoa chuối đỏ tươi, ánh nắng ban mai lấp lánh; sắc màu ấy hòa quyện, phản ánh sức sống mãnh liệt của tự nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang thống trị tự nhiên, thống trị cuộc sống trong cuộc kháng chiến. Tố Hữu đã nhìn nhận được sức mạnh tinh thần tập thể của nhân dân ta do cách mạng và cuộc kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất vươn cao trên đỉnh đèo, phơi mình dưới nắng và gió. Đoàn dân công chiến đấu với sự quyết tâm kiên cường, bước chân vẫn vững vàng trên đỉnh núi đá. Những chiến sĩ trẻ ra trận mang theo sức mạnh vô song của thời đại mới:
'Núi vươn vai không biết mệt mỏi
Lá rừng vờn gió vẫy lên đỉnh'.
('Trên con đường Tây Bắc')
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ trắng khoe sắc. Chữ 'trắng' là một từ mô tả màu sắc được sử dụng trong cụm từ 'hoa mơ trắng', khiến cho hình ảnh của một thế giới hoa mơ trắng tinh khiết bao phủ khắp rừng núi Việt Bắc trở nên sống động và rộng lớn. Cách sử dụng từ ngôn ngữ tinh tế của Tố Hữu đẩy ta về câu thơ của Nguyễn Du miêu tả một góc xuân thanh bình, trong lành trong 'Truyện Kiều':
'Cỏ non mướt mát đến tận chân trời,
Cành lê trắng pha chút hồng của bông hoa'.
Nhớ 'mơ hoa trắng rừng', nhớ người thợ thủ công đan nón 'tỉ mẩn làm đẹp sợi giang'. 'Tỉ mẩn' là việc tạo ra vẻ đẹp sáng bóng cho những sợi giang mảnh mai. Cần phải khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể 'tỉ mẩn từng sợi giang' để tạo ra những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ cho cuộc kháng chiến, để anh bộ đội ra trận có 'ánh sao trên đầu súng cùng với mũ nan'. Người đan nón được nhà thơ ví von là biểu tượng cho vẻ đẹp tài năng, tính sáng tạo của người dân Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thực sự là kỷ niệm đáng nhớ:
'Ngày xuân mơ hoa trắng rừng,
Nhớ người đan nón tỉ mẩn từng sợi giang'.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve reo vang làm nên bản nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng sồi, là nhớ cô gái đi 'hái măng một mình' giữa rừng sâu, rừng trúc, rừng thông:
'Ve kêu rừng phách vàng rơi,
Nhớ cô em gái hái măng lẻ loi'.
Một từ 'rơi' ẩn chứa nhiều tài nghệ. Tiếng ve kêu như phóng từ trời cao 'rơi' về dưới thúc đẩy những ngày hè vượt qua nhanh chóng, khiến cho rừng phách trở nên thêm rực rỡ. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng từ 'rơi' để truyền tải cảm xúc tương tự: 'Rơi trời xanh ngọc qua muôn lá...' (Thơ duyên - 1938). Câu thơ 'Nhớ cô em gái hái măng lẻ loi' là một câu thơ đặc sắc, phong phú về âm điệu và thanh điệu. Có sự kết hợp vần: 'gái' và 'hái'. Có sự chuyển âm qua các phụ âm 'm': 'măng - lẻ - loi'. Đây là những yếu tố vần chữ mà cần được điêu luyện, tạo ra một không gian thơ mộng và phong phú, đầy âm nhạc. 'Cô em gái hái măng lẻ loi' không cảm thấy cô đơn, bởi vì cô đang làm việc giữa bản nhạc rừng, hái măng để hỗ trợ cuộc chiến đấu. Cô gái hái măng là một hình ảnh trẻ trung, tràn đầy sự yêu đời trong thơ Tố Hữu.
Nhớ mùa hè và nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ mãi không phai, nhớ ánh trăng, nhớ tiếng ca:
'Rừng thu trăng sáng hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát tình thâm thùy'.
Trăng xưa 'vàng rọi ngập cảnh cây lồng bóng sân'. Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là 'trăng lung linh giữa bóng cây hoa lồng'. Những người cán bộ chiến đấu khi trở về nhớ về vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng 'chiếu sáng' qua tán lá rừng xanh, trăng mát mẻ rưng rức màu 'hòa bình' đầy thi vị. 'Ai' là một đại từ nhân xưng bao quát, 'nhớ ai' là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu lòng thương yêu, đã hy sinh bản thân cho cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ trên chứa đựng tình cảm sâu sắc. Sự thấm đẫm của tình yêu thương như len lỏi vào cảnh vật và tâm hồn, người ở xa nhớ về, người ở lại nhớ về mình. Tình cảm ấy vô cùng trân trọng, là biểu hiện của tình thân thiết sâu nặng. Thời gian sẽ trôi qua, những giai điệu tình thương ấy sẽ mãi mãi như một dấu son đỏ sâu đậm trong lòng người.
Đoạn thơ mang đậm vẻ đẹp của một bức tranh dân tộc đặc sắc, thấm đượm phong cách văn hóa dân tộc. Từ khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp vào mùa đông năm 1946, cho đến khi thủ đô Hà Nội được giải phóng vào mùa thu tháng 10 - 1954, Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ về Việt Bắc qua bốn mùa: đông - xuân - hè - thu, theo dòng lịch sử. Mỗi mùa đều mang trong mình một vẻ đẹp đặc trưng, tươi mới với sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ rực của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu hòa bình của thiên nhiên. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất gần gũi, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nhắc đến không phải là những người săn, làm vườn, đánh bắt, nghèo khổ mà là những người lao động nương tựa với đất, là những người đan nón, là cô gái hái măng, là những người đang hát về tình thương thủy chung. Tất cả đều phản ánh những phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Bắc: kiên trì, thống trị thiên nhiên và thống trị cuộc sống bằng lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài năng, trẻ trung và yêu đời, yêu cuộc sống, yêu cách mạng, yêu kháng chiến.
Một giọng thơ dịu dàng, đầy cảm xúc kềm kế thấm sâu vào lòng người đọc. Sự nhớ mong được thể hiện trong 'Việt Bắc' cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ của Tố Hữu: trung thành với cộng đồng và tính dân tộc, kết hợp với màu sắc cổ điển và tính thời đại một cách hài hòa.
Hình tượng tươi đẹp, phong phú, đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân đối hài hòa, để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: 'Cảnh rừng Việt Bắc thật là đẹp...'
Thơ là một hình ảnh, một bức tranh..., từ hình ảnh cụ thể nó có thể gợi lên những ý nghĩa vô hình bao la (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đã thức tỉnh trong lòng chúng ta tình yêu với Việt Bắc, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ 'rung rinh lên một thông điệp sâu sắc', để chúng ta nhớ về tình yêu với Việt Bắc, tình yêu với kháng chiến.
https://Mytour.vn/buc-tranh-tu-binh-trong-bai-viet-bac-to-huu-29137n.aspx
Hãy tham khảo các bài văn mẫu phân tích về nhân vật người quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân để hiểu cách viết các bài văn phân tích nhân vật.