Đánh giá về bài thơ Mùa xuân chín với dàn ý chi tiết và 2 mẫu cực kỳ hấp dẫn, giúp học sinh lớp 10 tự học để mở mang kiến thức, nâng cao kỹ năng về văn cảm nhận và đánh giá bài thơ một cách hiệu quả hơn.
TOP 2 mẫu nhận định về Mùa xuân chín vô cùng sắc sảo, bao gồm cả bài viết ngắn và đầy đủ để học sinh tham khảo, lựa chọn theo khả năng sáng tạo của mình, giúp học sinh nắm vững môn Ngữ văn và chuẩn bị tốt hơn cho kỳ thi. Bạn cũng có thể tham khảo thêm Đoạn văn cảm nhận về một câu thơ hay hoặc một hình ảnh trong bài thơ Mùa xuân chín.
Dàn ý nhận định bài thơ Mùa xuân chín
1. Khởi đầu
Bài thơ 'Mùa xuân chín' đại diện cho phong cách văn học xuân sắc, góp phần làm nên tên tuổi văn hào Hàn Mặc Tử.
2. Phần thân bài
- Những dấu hiệu chứng tỏ xuân đã về:
- Tia nắng chói chang
- Hơi ấm tràn ngập
- Mái tranh rạng rỡ bên những đóa hoa thiên nhiên
-> Bình yên, thanh thản và tràn ngập tình yêu thương
- Phong cảnh nông thôn rực rỡ dưới ánh nắng xuân:
- Mưa xuân ban đầu thêm sức sống mới
- Cỏ cây xanh mướt như ngọc bích 'đẹp đến nao lòng'
- Nụ cười hạnh phúc trên môi người dân khi chào đón mùa xuân
- Hạnh phúc tột bậc của đôi lứa
- Tiếng thơ ngây ngất khiến lòng người xuyến xao, bồi hồi
=> Xuân tràn đầy nghị lực và hạnh phúc, là mùa 'chín' của lòng người và cuộc sống
3. Tổng kết
Bằng ngôn từ tinh tế và trái tim nhân hậu, Hàn Mặc Tử đã sáng tác nên một 'mùa xuân chín' đầy đặn, toả sáng.
Cảm nhận về Mùa xuân chín - Mẫu 1
Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi nhưng tâm hồn đa cảm và mong manh, đã để lại những tác phẩm văn chương đặc sắc. “Mùa xuân chín” là một trong những tác phẩm ấy. Trong bài thơ, tác giả mang đến không gian của sự giao mùa, ký ức về quê hương, và những tâm trạng mơ mộng, khiến độc giả không ngớt suy tư. “Mùa xuân chín” – một phần của trời riêng đang chín mọng cảm xúc, của nhà thơ và người đọc.
Chỉ từ tựa đề, chúng ta đã cảm nhận được vẻ đẹp tinh túy và cao cả của “Mùa xuân chín”. Giữa dòng chảy của tuổi trẻ và già nua, bài thơ trở thành một giá trị tinh túy nhưng cũng mong manh và ngắn ngủi. Sống trong khoảnh khắc tinh khiết nhất của vũ trụ, có gì bằng!
Trong ánh nắng ửng: khói sương tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Từ “ửng” trong “nắng ửng” đề cập đến sự chín muồi của mùa xuân. Ta có thể tưởng tượng ngay đến cái “chín ửng” của quả đào, quả hồng, hay cảm giác “ửng” của đôi má của các cô gái trong tiết trời lạnh. Tương tự, mùa xuân đang “chín” trong ánh sáng của nắng. Các tia sáng len lỏi qua làn khói sương, tạo ra một không gian mơ mộng, như trong mơ, đưa tâm hồn thi sĩ lên cao, thoát ly khỏi hiện thực, bước vào thế giới “mơ mộng”. Những dải ánh sáng vàng là những tia nắng hay cũng có thể là những ảo ảnh trong đôi mắt của người đang say mê. Say mê không phải là quên hết mọi thứ, mà trong trạng thái say mê, nhà thơ trầm mình, tập trung, hòa mình vào một thế giới duy nhất: khói tan, mái nhà lấm tấm vàng, gió thổi nhẹ nhàng qua giàn thiên lý. Đó là hình ảnh của mùa xuân, chỉ là “bóng”, mơ hồ, huyền ảo của một mùa xuân đẹp nhưng qua loa, đẹp đến mức hoàn hảo, nằm trong tâm hồn nhà thơ. “Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của những cô gái đánh thức Hàn Mặc Tử, đưa ông trở về hiện thực. Toàn bộ bài thơ là biểu hiện của sự tiếc nuối, xót xa: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy; Có người theo chồng, bỏ hết cuộc vui…”
Nhà thơ nghĩ về ngày mai, về sự thay đổi của cảnh vật và con người, những cô gái sẽ không còn vô tư, hồn nhiên, vui vẻ hát với mùa xuân nữa, cũng như mùa xuân sẽ qua đi, “xuân chín” sẽ kết thúc. Tâm hồn đa cảm ấy không thể không bị rung động. “Đám xuân xanh ấy” - mùa xuân tươi đẹp của cuộc sống cũng là mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên mà nhà thơ vẽ ra trước mắt độc giả.
Tiếng hát rộn rã trên triền núi,
Bồn chồn như tiếng của mây…”
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Trí tưởng tượng của tác giả đã đạt đến đỉnh cao, tiếng hát tràn ngập không gian như đang “rộn rã trên triền núi”, giống như tiếng nói của những đám mây... Những âm thanh không bay xa mà vẫn “thầm thì với ai ngồi dưới trúc”. Từ “ai” cho thấy sự tinh tế trong tâm hồn của nhà thơ. Tiếng hát vang lên khắp nơi, nhưng nhà thơ chỉ dành riêng cho “ai”. Đó chính là mình, tự nhận ra rằng: Nghe ra ý vị và thơ ngây. Không có nhiều người đủ sức làm như thế! Nghĩ đến đất trời, về sự thay đổi, về mùa xuân, tác giả nhớ về bản thân mình “Khác xa khi gặp mùa xuân chín”. Nhà thơ nhận ra mình chỉ là một người đơn độc, xa lạ, cô đơn, chỉ khi gặp “mùa xuân chín” mới có được những khoảnh khắc ấm lòng. Hàn Mặc Tử nhớ về quê cũ: “trí nhớ nhung nhớ quê”
Khi nhớ về quê xưa, tâm trạng đầu tiên của tác giả là một hình ảnh về người con gái. Đó là một loại nhớ, một cảm xúc không thể kiểm soát được, mà là của con tim đang thổn thức, nóng bỏng vì nỗi nhớ. Những từ, những âm vần như “trắng, nắng”, “chang chang” mang lại cho độc giả cảm giác mạnh mẽ về bờ sông cát trắng, nắng chói rực, tạo nên hình ảnh của một người phụ nữ thật đẹp: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng của nhiều thi sĩ. “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử không chỉ là mùa xuân nở hoa mà còn là sự trưởng thành của tâm hồn thi sĩ, sự trưởng thành của tình cảm đối với quê hương, đối với người thân trong thơ Hàn Mặc Tử.
Bài thơ đậm chất cảm xúc, khiến lòng người đọc lắng đọng. Với tâm trạng lãng mạn và những câu thơ tình tuyệt vời, Hàn Mặc Tử đã để lại cho thế giới một bức tranh mùa xuân, một hình ảnh mùa xuân dịu dàng. Dù đã xa xôi nhưng tình yêu vẫn luôn tồn tại mãi mãi. Bài thơ ấy cùng với tâm hồn của Hàn Mặc Tử vẫn còn đọng mãi.
Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 2
Không ai biết mùa xuân đã tồn tại từ khi nào và thơ xuân đã xuất hiện từ khi nào, chỉ biết rằng từ khi con người tồn tại đã có mùa xuân rực rỡ và bài thơ xuân, sống mãi trong lòng cuộc sống, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân, thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai sẽ luôn có những bài thơ xuân cho cuộc sống, cho con người. Và đã từng có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” khi cảm xúc trong con người lữ khách đã tràn ngập.
Mùa xuân, ai ai cũng hiểu rằng đó là khoảnh khắc phấn khích nhất của cuộc sống. Mỗi khoảnh khắc mùa xuân đều mang một vẻ đẹp riêng, lúc là “mùa xuân nhỏ bé”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây “Mùa xuân chín” vẫn còn mới, vẫn đang sống động, vẫn mang một sức sống trẻ trung, dồn nén, sắp nảy nở giống như hồn nhiên, lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.
Mỗi câu thơ đều mang hơi thở của mùa xuân, thấm đẫm vẻ đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ ánh nắng mới lạ thường:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.
Chính là nắng xuân, không phải tia nắng, hạt nắng, mà là “làn nắng”. Chữ “làn” như đưa ta vào một không gian nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải khắp trong thơ và không gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”. Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã nhưng cũng huyền diệu. Sương khói kết hợp với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang “tan” đi. Ngòi bút của thi sĩ vẫn theo đuổi một phong cách thơ truyền thống, cổ điển, cảnh vật như có hồn, có tình cảm chan chứa. Trân trọng đón nhận ánh nắng tinh khiết ấy là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Sự hòa quyện trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy mơ mộng. Vài nét chấm phá đơn giản nhưng tinh tế gợi lên cảm giác, dễ thương và dịu dàng. Chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn đem lại một sức sống rất thân quen, bình yên với mọi người. Nắng như rơi lên “đôi mái nhà tranh” chút màu xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Tiếng gió “trêu” áo và màu “biếc” của lá cây là tình xuân. Một từ “trêu” dễ thương quá, thân thương quá, như mang hương sắc của quê hương từ những câu ca dao, những khúc hát ngọt ngào thuở xưa vẫn vang vọng mãi trong lòng chúng ta… Gió cũng “trêu” áo, nhưng lại chọn áo biếc mới thực sự thơ mộng, đẹp đẽ. Mùa xuân là như thế, “chín” là như thế
Từ cụ thể, từ ánh nắng, từ mái nhà tranh, từ gió, sau đó mới tổng kết: “Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”. Câu thơ mang một cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương chào đón “bóng xuân sang”, cảm xúc trìu mến như nín thở ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã đến. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm, có thể ngắm ngay trước mắt của mỗi người.
Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ, mùa xuân đến ầm ầm:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn vờn trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.
Cỏ vẫn xanh mãi, tươi mãi trong bầu không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh “sóng cỏ” và ba từ “gợn vờn trời” mô tả làn cỏ xanh như sóng dập dờn dưới làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Liệu có phải bên ngoài có sóng cỏ thực sự, hay là lòng của thi sĩ, cỏ xanh tươi mới tạo nên “sóng” như thế? Mùa xuân luôn đặc trưng bởi màu xanh của cỏ. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Màu xanh tươi tràn đầy sức sống yên bình trong thơ của Hàn Mặc Tử cứ gợn vờn trời”, lan tỏa mãi không ngừng, trải dài vô tận, trải khắp, ngâm vào tâm hồn thơ. Trong màu sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đạt đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân quen thuộc quá, yêu thương quá. Đó là một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân từng được nhắc đến qua tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên sự “chín” trong tâm hồn của bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của giọng ca duyên dáng, của trai gái nơi quê hương, mộc mạc mà tình cảm. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống chân thành của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã ghi lại nhiều xúc động trong lời hát ấy. Mùa xuân mới thực sự “chín” khi có con người và tiếng hát đọng lại:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Âm thanh vang lên từng tiếng thơ, độ nhịp rung, “vắt vẻo” hòa quyện với âm trầm “hổn hển” thể hiện sự biến đổi cảm xúc rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hoà nhập hoàn toàn vào thế giới âm thanh của mùa xuân ấy.
Tiếng ca như hòa quyện, như phảng phất, như ngân nga giữa “lưng chừng núi”. Dư âm tiếng hát dường như giữ lại, rung lên “vắt vẻo” tạo nên nhiều cảm xúc rối bời, xao xuyến trong tâm hồn nhà thơ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai từ “hổn hển” như nhịp thở vội vàng, đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ như làm xiêu lòng người, như lan tỏa khắp không gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. Và còn tiếng thầm thì “thầm thì với ai…” dưới bóng trúc, chắc chắn là tâm sự, là thân thương rồi. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm vào tận đáy lòng người đem lại sự an ủi, sưởi ấm lòng với tình yêu thương. Sự đa dạng về giai điệu và phức tạp về âm nhạc của khúc hát quê hương, làm cho mọi người mê mải, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.
Tiếng hát rộn ràng của mùa xuân, ngọt ngào và đáng yêu đến tận lòng, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” từ từ trong tim các cô gái thôn dã, đột nhiên dừng lại như có điều gì đó thiếu sót, đầy nghi ngờ:
“Ngày mai trong đám xuân xanh kia,
Có người theo chồng, từ bỏ trò chơi”.
“Đám xuân xanh ấy” là những cô gái thôn quê đang hát, đang “tâm sự với ai ngồi dưới bóng trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng từ bỏ trò chơi… Tự nhiên và tâm hồn con người như hòa mình vào mùa xuân trôi đi, tuổi xuân ngây thơ trôi đi. Hàn Mặc Tử như cảm thấy buồn, thấy lẻ loi, mơ hồ, như đang mất đi một phần trong lòng khi mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới có nghĩa là xuân đang qua – Xuân còn non có nghĩa là xuân sắp già” (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là kẻ lữ khách đi qua mùa xuân chạm đến cái ý nghĩa của mùa xuân: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”. Một phong cách viết thơ truyền thống cổ điển “xuân theo lão” kết hợp với cái mới, hiện đại làm cho tâm trạng thơ thêm sâu sắc hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà xúc động:
“Nhớ nhà lòng vẫn xao xuyến
Chị ấy năm nay vẫn gánh lúa
Bên bờ sông trắng nắng phơi phới”.
Hình ảnh của quá khứ hiện lên một cách u buồn và mở rộng bao la, xa xôi. Nhà thơ khao khát một tình cảm, một tình yêu quê hương. Mỗi kỷ niệm đều rất dễ chịu. Nhớ về một công việc cụ thể: “gánh lúa” trong một không gian cụ thể: “Bên bờ sông trắng nắng phơi phới”. Chỉ có “chị ấy” là người không thể biết mà chỉ có tác giả mới hiểu để “xao xuyến”, để thầm tự hỏi. Và lo sợ rằng “mùa xuân chín” ấy sẽ trôi qua. Đó có lẽ là thế giới của Hàn Mặc Tử, là tâm hồn của Hàn Mặc Tử khát khao giao lưu với cuộc sống mà luôn mang một nỗi buồn, một cảm giác lạc lõng, hụt hẫng như vậy.
“Mùa xuân chín” là một bức tranh xuân tuyệt vời, là một bài thơ xuân tươi mới nhất, sáng sủa, sôi động, say mê, thoáng buồn. Hàn Mặc Tử đắm chìm trong cảm xúc thiên nhiên đẹp đẽ, màu sắc cổ điển hòa quyện với vẻ dân dã, tươi trẻ mà đầy ấn tượng đã tạo nên một bức tranh xuân rạng rỡ và mơ mộng. Mùa xuân là đẹp. Con người trẻ trung, ngây thơ, đẹp đẽ, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu quê hương, yêu ánh nắng, yêu những mái nhà tranh, yêu cánh đồng, yêu tiếng hát vang vọng của những cô gái xuân trên “cỏ xanh mướt gợn sóng lên trời”.
“Mùa xuân chín” đôi khi sôi động, đôi khi êm đềm trong tâm hồn nhà thơ. Có lúc hồn nhiên, có lúc trầm lắng, như đang ngấm mình vào bước đi của mùa xuân rồi thổn thức, “xao xuyến… ” và “buồn bã”. Cái niềm nhớ buồn bã của kẻ lữ khách mãi mãi là tình yêu thương, khao khát giao lưu với hương vị và giai điệu của mùa xuân, với quê hương thân quen ở miền Trung “Bên bờ sông trắng nắng phơi phới”…