Qua 2 mẫu văn đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ, học sinh lớp 10 có thêm nhiều gợi ý và kiến thức để phát triển kỹ năng viết văn. Đồng thời, cần chú ý diễn đạt mạch lạc và sử dụng từ ngữ liên kết một cách thông minh để làm cho bài văn trở nên hấp dẫn hơn.
Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ 'Ngắm trăng'
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ xuất sắc mà còn là một nhà văn và nhà thơ vĩ đại. Bài thơ 'Ngắm trăng', một tác phẩm nổi tiếng của Bác, đã được trích từ cuốn 'Nhật kí trong tù'.
Kích đầu bài thơ là phác họa không gian tù giam:
“Ở trong tù, không rượu cũng không hoa”
Bác vẽ lên bức tranh sống động về cuộc sống khắc nghiệt trong tù: không có rượu, không có hoa, chỉ là những côn trùng và mùi phân bốc lên. Với tâm hồn thi sĩ, hoa và rượu là nguồn cảm hứng quý báu để sáng tạo, việc thiếu thốn này khiến cho tâm trạng càng trở nên trầm uất.
Mặc dù vật chất thiếu thốn nhưng trước cảnh đẹp, trái tim lại đong đầy cảm xúc:
“Cảnh đẹp hôm nay khó lòng quên”
Dù trong tù, bản thân Bác vẫn không thể không bị lòng xao xuyến trước cảnh đẹp giữa đêm tối trống vắng. Mặc dù thiếu thốn rượu và hoa, nhưng vẻ đẹp của thiên nhiên vẫn khiến tâm hồn Bác sảng khoái.
“Người nhìn trăng soi qua cửa sổ
Trăng nhìn vào khe cửa, trông nhà thơ”
Từ trong căn phòng tối om, Bác nhìn ra vầng trăng, cảm nhận ánh sáng, tâm hồn thêm thanh thản. Dù có hàng sắt chia cắt, nhưng không ai có thể cản trở được tình cảm giữa người tù và vầng trăng. Trăng như một người bạn tri kỷ, từ xa xứ đến thăm Bác trong căn phòng tối om. Hai dòng thơ đối chiếu tạo nên sự cân bằng hoàn hảo giữa con người và trăng, giữa từ ngữ, hình ảnh và ý thơ.
Bài thơ làm cho chúng ta nhìn vào một khía cạnh khác của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh trí tuệ giúp đất nước giành độc lập, Bác còn là một thi sĩ tinh tế, sâu lắng, hòa mình vào thiên nhiên, với cảnh đẹp ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Dù thời gian trôi qua, tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu và ghi lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Trên đây là cảm nhận của tôi về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Ngắm trăng”. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe!
Đánh giá về nội dung và nghệ thuật bài thơ Mùa xuân chín
Xin chào mọi người, tôi là ............... Hôm nay, tôi đến từ toà soạn báo Phong Hoá với tư cách là một nhà báo. Hãy cùng tôi khám phá về một nhà thơ mang phong cách độc đáo, lạ mắt, một người nghệ sĩ tài năng.
Bạn thích mùa nào nhất trong bốn mùa? Vào mỗi mùa, bạn cảm thấy ra sao? Đối với tôi, mùa xuân có lẽ là khoảng thời gian đẹp nhất trong năm. Bạn có từng nghe đến bài thơ “Mùa xuân nhỏ” của Thanh Hải, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính chưa? Nhưng bạn đã từng nghe về “Mùa xuân chín”? Đó là tên của một tác phẩm vô cùng kỳ bí, độc đáo và mới lạ mà tôi muốn giới thiệu.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với tôi vì chính chủ đề của nó. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, chúng ta luôn cảm nhận được sự u ám, mơ hồ, kỳ bí, buồn bã và đau thương với những hình ảnh “máu”, “trăng” và “rượu”. Nhưng “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới, một không gian đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” thường được dùng để mô tả trạng thái của quả cây khi đã đến thời điểm thu hoạch, ngọt ngào, đầy đặn và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, hài lòng và đầy đủ. Đây là thời điểm mà xuân tươi đẹp nhất, rạng ngời nhất và đầy năng lượng.
Dòng thơ là một dòng chảy tâm tư không dừng lại với những thay đổi bất ngờ: từ bên ngoài đến tâm trạng, từ sắc thu đến tình thu, từ niềm đam mê rộn ràng đến nỗi buồn, hoang mang, xúc động, từ hiện tại trở về quá khứ.
Bắt đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, tràn đầy ánh sáng, đầy sắc xuân:
“Trong ánh nắng ấm áp, khói mờ tan
Mái nhà tranh lung linh tấm vàng
Gió nhè nhẹ thổi, áo biếc rủ nhau đùa
Trên mái hiên xanh. Bóng xuân về”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện lên tràn đầy sắc vàng của nắng hoà trong làn sương mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mờ tan” khiến ta hiểu như những dòng khói sương như tan chảy trong nắng, tạo nên một khung cảnh đẹp như trong mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “mái nhà tranh lung linh tấm vàng”. Trong khung cảnh yên bình ấy, bỗng nhà thơ nghe tiếng “gió nhè nhẹ” của “áo biếc rủ nhau đùa”. “Gió nhè nhẹ” được đặt ở đầu câu nhằm nhấn mạnh sự dịu dàng của cảnh vật. Gió như đang đùa giỡn cùng áo biếc chào đón mùa xuân về, khiến không khí trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái hiên xanh, nhà thơ chuyển điểm nhìn lên “mái hiên xanh”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân về”. Mùa xuân được hình thành, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngạc nhiên và chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ góc nhìn cận cảnh, Hàn Mặc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn về phía xa cảnh. Không gian mùa xuân được mở rộng với “sóng cỏ xanh tươi bên dưới trời”. “Sóng” kết hợp với thảm cỏ xanh mướt khiến bạn đọc hiện dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài vô tận, sức sống dường như đang đầy khí thế. Ý thơ gợi nhớ đến câu thơ trong đoạn trích “Cảnh xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh đến chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài vô tận nhưng độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống dâng trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết hợp lại tạo thành một “mùa xuân chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mặc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu để nói về tình yêu, tả về tình yêu? Một tình yêu nồng nàn, thiết tha với con người và cuộc sống. Hòa cùng với không khí vui vẻ của mùa xuân, ta nhìn thấy cái nồng nàn trong lòng người:
“Trên đồi cô thôn nữ hát cao
-Ngày mai trong bữa tiệc xuân xanh đó
Có người theo chồng từ bỏ trò chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của thiên nhiên. Chính vì thế, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình yêu. Ánh nắng mạnh mẽ có thể là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng từ bỏ trò chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự kết nối trong hôn nhân đến già đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là thời tiết mùa xuân mà còn là tình yêu xuân. Chữ “chín” trong tình yêu chính là kết quả của việc vợ chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vang vọt xa lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” ban đầu được cảm nhận bằng thính giác, nay được hiện thân trong trạng thái “vang vọt”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát cao vút của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn vẹn nguyên trong “vang vọt lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian
Từ âm thanh cao vút, hỗn hợp như lời của mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phản ánh tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bên sông trăng đó” (Đây thôn Vi Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” ban đầu vang xa khắp núi rừng nay chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, chia sẻ, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thơ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Bữa tiệc xuân xanh đó” rồi cũng “theo chồng từ bỏ trò chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn niều giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hóa thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
“Người xa, gặp khi mùa xuân chín
Trái tim bâng khuâng nhớ về quê hương
-Chị ấy, năm nay vẫn gánh lúa
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “người xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ về quê hương thân thương. Nhớ ánh nắng ấm, nhớ mái nhà tranh, nhớ chiếc áo màu xanh và nhớ cả gian thên lý. Đó là một không gian quê mùa, giản dị, gần gũi mà chứa đựng nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh lúa trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người lao động bình thường ở thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là người yêu của thi nhân. Người con gái xuất hiện trong hình ảnh lao động với tư thế gánh lúa, hòa cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao!
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hòa của sắc xuân, tình xuân. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như bút pháp tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kỳ bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy nét bút của Hàn Mặc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sáng, đám xuân xanh, tiếng ca vắt veo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trữu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hóa một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hòa cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạng rỡ, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khao khát giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh túy, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.
Phần giới thiệu của tôi đến đây là kết thúc. Cảm ơn bạn đã lắng nghe. Nếu có câu hỏi và thắc mắc gì, mong mọi người hãy đặt. Tôi rất mong có thể trao đổi và lý giải những băn khoăn của mọi người.