Dàn ý đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi bao gồm 6 dàn ý chi tiết nhất, giúp tổng hợp các nội dung chính, luận điểm và luận cứ một cách rõ ràng. Việc này giúp tránh tình trạng viết xa đề, lạc đề hoặc lặp ý trong văn phân tích.
Đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo là minh chứng rõ ràng cho sự tàn ác, thâm hiểm của kẻ thù xâm lược, được tường thuật cặn kẽ nhờ vào sự tài tình trong nghệ thuật luận biện của Nguyễn Trãi. Điều này giúp thế hệ sau nhận thức được giá trị quý báu của việc bảo vệ và yêu quý đất nước Việt Nam. Ngoài ra, ngoài dàn ý đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo, học sinh cấp 10 cũng nên tham khảo phân tích đoạn 1 và toàn bộ nội dung của Bình Ngô Đại Cáo để có cái nhìn toàn diện hơn.
Dàn ý đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo được viết ngắn gọn
1, Phần khởi đầu
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
2, Phần chính
* Bản cáo trạng mạnh mẽ vạch trần tội ác của quân địch nhà Minh.
- Nguyễn Trãi đã phơi bày toàn bộ âm mưu độc ác của chúng: bằng cách lợi dụng tình hình hỗn loạn của nhà Hồ, quân Minh đã tận dụng cơ hội để xâm lược nước ta:
'Nhân dân nước Hồ gặp khó khăn,
Dân chúng ta trong nước phải gánh chịu sự oan trái.
Quân Minh đã lợi dụng tình hình để gây ra tai họa,
Đám phản quốc vẫn tiếp tục bán nước mong đạt được lợi ích'.
=> Trong suốt hai mươi năm thời kỳ bị đô hộ của nước ta (1407-1427), chính quyền thực hiện nhiều biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ chiến đấu, xây dựng và bảo vệ sự độc lập của dân tộc, tiêu diệt những di sản văn hoá truyền thống của người Việt để chiếm đất nước mãi mãi.
- Tác giả đã nói rõ đây là tội ác “Phá hoại truyền thống của con người và xã hội” và mô tả những hành động tàn bạo của chúng.
Đốt người dân trên lửa đỏ bỏng,
Chôn số phận dưới lòng đất tối tăm.
=> Đây là hình ảnh vừa cụ thể, vừa tổng quát như một lời cáo buộc, lời kết án kẻ thù.
- Nhìn từ góc độ nhân nghĩa, đoạn văn là biểu tượng của nỗi oan khuất và sự hận thù bỏng cháy của Nguyễn Trãi dành cho kẻ thù.
3, Phần kết
- Tóm tắt lại ý nghĩa của bài thơ
- Cảm xúc của tôi về bài thơ
Dàn ý phân tích đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo
I. Phần khởi đầu:
- Trình bày khái quát về tác phẩm và tác giả Đại cáo bình Ngô.
II. Phần chính:
Tác giả phân tích một cách logic về tội ác của giặc Minh:
- Tác giả tiết lộ mưu đồ xâm lược của giặc Minh.
- Tiết lộ kế sách 'bóp cổ Trần, kích Hồ' của giặc Minh (sự kiện Hồ chinh phạt Trần chỉ là lời biện pháp để giặc Minh khai thác cơ hội, dùng thủ đoạn để chiếm đất nước)
- Âm mưu thôn tính quốc gia ta đã tồn tại, lâu đời.
- Tác giả tiết lộ những lời chỉ trích cương vị thống trị không nhân đạo của giặc Minh
- Thu thuế nặng nề, quằn quại dân chúng.
- Độc chiếm tài sản, cưỡng bức dân làm công việc nguy hiểm (dùng mọi cách để kiếm lợi, chiếm đoạt của cải, ép buộc lao động vào những công việc nguy hiểm như khai mỏ, tìm vàng,…).
- Tác giả lên án mạnh mẽ các hành vi tàn bạo của giặc.
- Hủy hoại cuộc sống của con người bằng việc thực hiện chính sách diệt chủng, giết dân vô tội (thảm sát dân bản địa, bỏng người dân không tội).
- Phá hoại môi trường sống (tiêu diệt cả động vật và cây cỏ).
=> Đây là một bản tố cáo mạnh mẽ về tội ác của giặc Minh
III. Tổng kết:
Xác nhận lại giá trị văn học và nghệ thuật của đoạn trích, đặt ra chủ đề chính của nó.
Tóm tắt ý chính của phần 2 Bình Ngô Đại Cáo
1. Khởi đầu
- Giới thiệu về Nguyễn Trãi: Là một nhà lãnh đạo, chiến binh tài năng, nhà văn và nhà thơ có sự nghiệp văn học đặc biệt.
- Tóm tắt nội dung tác phẩm: Là một tác phẩm vĩ đại, là biểu tượng cao quý của tinh thần dân tộc.
- Giới thiệu nội dung của đoạn thơ thứ hai: Lên án tội ác của quân giặc.
2. Phần chính
- Mô tả bối cảnh sáng tác của tác phẩm
- Tóm tắt nội dung của đoạn thơ đầu tiên và đưa ra nội dung của đoạn thơ thứ hai: Lên án tội ác của quân giặc
- Tội ác xâm lược: Từ “nhân, thừa cơ” cho thấy sự cơ hội, thủ đoạn của giặc Minh, họ lợi dụng chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để khơi mào chiến tranh xâm lược nước ta.
=> Phơi bày sự giả dối, chiếm đoạt của giặc Minh.
- Tội phạm ngược lại nhân dân:
- Khủng bố, giết hại vô tội: Nướng người vô tội, chôn đỏ
- Bóc lột qua thuế, cướp tài nguyên quốc gia, và sản phẩm của dân ta
- Phá hủy môi trường, diệt chất sống
- Bóc lột lao động, phá hoại sản xuất
=> Sử dụng phương pháp liệt kê tố cáo những tội ác tàn bạo của thù địch.
=> Kích thích cảm xúc của người đọc bằng cách vẽ lên hình ảnh bi thảm, đau đớn của dân chúng
=> Sự thương xót, đau buồn, và lòng trắc ẩn đối với dân chúng, cùng với sự căm phẫn với kẻ thù của tác giả.
b. Sự hận thù sâu nặng của nhân dân đối với kẻ thù.
- Sử dụng hình ảnh mạnh mẽ “trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” để phản ánh sự tàn ác của giặc Minh.
- Bày tỏ sự nghi ngờ “lẽ nào...chịu được”: Tội ác của giặc không thể dung thứ.
=> Thái độ căm phẫn, nổi giận không bao giờ khoan nhượng của nhân dân Việt Nam
⇒ Đoạn văn là biểu hiện đanh thép về tội ác của giặc Minh
3. Kết luận
- Xác nhận giá trị của đoạn thơ
- Đánh giá tài năng của Nguyễn Trãi trong việc sáng tác 'Bình Ngô đại cáo'.
Phân tích dàn ý về tội ác của kẻ thù Minh
1. Mở đầu
- Giới thiệu tổng quan về nội dung của tác phẩm Bình Ngô đại cáo: Là một kiệt tác văn học cổ điển, là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc
- Khái quát nội dung phần 2: Phản ánh sự tàn ác của kẻ thù Minh trong những năm đô hộ của nước ta, càng làm đậm thêm nỗi đau mất nước
2. Nội dung chính
* Phê phán sự mánh khoé của kẻ thù Minh:
- Luôn có kế hoạch để chiếm đoạt đất nước từ lâu nhưng sợ người dân phản đối, nên chúng lợi dụng việc 'phù Trần, diệt Hồ' để lừa dối dư luận
- Trong khi đó, 'bọn phản quốc chỉ tìm lợi ích cá nhân', bán rẻ lòng tự ái dân tộc để thu lợi ích nhỏ nhoi
=> Nhân dân phải đối mặt với tình thế 'thù trong, giặc ngoài'
* Tội ác của kẻ thù:
- Hành động tàn bạo, âm mưu diệt chủng những người đấu tranh bằng các biện pháp dã man, đáng sợ: 'Nướng người vô tội...', 'vùi con đỏ...', liên tiếp 'lừa đảo dân đủ mọi cách', gieo rắc thù oán trong gần 20 năm
- Bóc lột, hành hạ dân chúng bằng các loại thuế khóa, đẩy dân vào nguy cơ, biến dân thành nô lệ phục vụ mục đích của chúng: 'Nặng thuế khóa... khắp nơi cạm bẫy'
- Hình ảnh kẻ cướp nước hiện lên: 'Thằng há miệng... chưa hề chán chường', tràn ngập bạo lực...
* Hậu quả:
- Môi trường bị hủy hoại, phá huỷ nặng nề
- Cỏ cây, chim muông không có chỗ trú ngụ
- Phụ nữ trở thành góa phụ
- Gia đình từ bình yên đến hỗn loạn, tan tác cả.
=> Sự tàn ác của kẻ thù Minh được Nguyễn Trãi mô tả bằng những điều vô cùng, vô tận của tự nhiên: 'Trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi'...
- Nỗi đau thương, lòng căm phẫn đến cùng của tác giả: 'Lẽ nào trời đất dung tha? Ai nói thần dân chịu đựng được?'
3. Kết luận
Xác nhận lại vấn đề: Phần hai của Bình Ngô đại cáo giống như một lời buộc tội không nương tay của 'quan tòa' đối với 'kẻ phạm tội'.
Dàn ý phân tích phần hai của Bình ngô Đại Cáo
1. Bắt đầu Phân tích phần 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Tóm lược giới thiệu về tác giả, tác phẩm và phần cần phân tích
- Nêu bật hoàn cảnh lịch sử hình thành tác phẩm
2. Phần Thân bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Có thể khẳng định rằng phần đầu tiên là biểu hiện của tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ, là nền tảng để khẳng định quyền lực độc lập của dân tộc. Tư tưởng này bắt nguồn từ thực tế của đất nước mà Nguyễn Trãi đã phân tích sâu sắc như một chân lý. Chân lý này khẳng định rằng nhân nghĩa là chống lại quân thù xâm lược, chỉ có điều này mới phơi bày được sự mánh khoé của chúng được tác giả mô tả ở đoạn hai. Phần hai của tác phẩm là một lời cáo trạng về tội ác của Giặc Minh. Nó tố cáo những chủ trương tàn bạo của Giặc Minh:
- Giết hại người vô tội
- Bóc lột dã man, thu thuế, áp bức,…
- Hủy hoại môi trường sống
⇒ Tội ác khủng khiếp, một bọn giặc vô nhân đạo
- Các tội ác của kẻ thù chỉ khiến cho nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới trở nên rõ ràng hơn. Bởi vì:
- Quyền tự chủ của chúng ta tồn tại tự nhiên, từ lâu đã có sẵn
- Việc xác định quyền tự chủ như các dân tộc khác là chúng ta có văn hóa riêng, lịch sử riêng, anh hùng thời xưa không bao giờ thiếu.
- Nền văn hiến của chúng ta đã tồn tại từ hàng ngàn năm lịch sử: đây là yếu tố quan trọng để xác định quyền tự chủ dân tộc. Bất kể quân xâm lược nào cũng cố gắng phủ nhận sự thật này.
- Nguyễn Trãi đã phơi bày sự gian trá của kẻ thù và chỉ ra âm mưu chiếm đoạt đất nước của họ. Họ lợi dụng chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” nhưng thực ra là để cướp nước của chúng ta
- Tội ác mà chúng gây ra với chúng ta là cực kỳ tàn bạo và dã man.
- Đối diện với nỗi khổ, sự khó khăn cùng cực của nhân dân, tác giả cảm thấy rất đau đớn, tức giận về tội ác của kẻ địch, đồng thời đồng cảm và đau xót trước những đau thương mà nhân dân ta phải chịu đựng.
-Nghệ thuật so sánh: Tội ác của kẻ thù lớn tựa núi Nam Sơn; sự bẩn thỉu của chúng nhiều như nước Đông Hải. Dùng cái vô cùng nói cái vô cùng, tội ác của chúng không thể diễn tả, không thể hiểu hết.
3. Kết luận phần phân tích thứ hai của Bình Ngô Đại Cáo
- Tóm tắt ý nghĩa của tác phẩm và nhận định cá nhân
- Xác nhận lại tội ác không thể phủ nhận của giặc Minh và sự thông minh của Nguyễn Trãi trong việc tiết lộ tội ác của kẻ thù để khẳng định quyền tự chủ của dân tộc.
Dàn ý phần hai của Bình Ngô Đại Cáo
I. Giới thiệu
Tổng quan về tác giả Nguyễn Trãi, và tình hình ra đời của tác phẩm.
II. Phần chính
- Nguyễn Trãi tiếp tục phơi bày âm mưu của quân thù
- Âm mưu của quân Minh đã được bài bản lên kế hoạch từ trước, chỉ đợi thời cơ phù hợp để thực hiện.
- Tư duy 'phù Trần diệt Hồ' của quân Minh đã được tác giả vạch trần một cách rõ ràng.
- Nguyễn Trãi lên án, tố cáo sự tàn bạo, độc ác của quân Minh
- Tác giả đã cung cấp những bằng chứng rõ ràng về những hành động tàn ác mà kẻ thù đã thực hiện đối với quân và dân ta. 'Nướng dân đen', 'vùi con đỏ' là những hành động không thể tha thứ.
- Không chỉ hành hạ, chúng còn áp đặt thuế, phá hoại môi trường tự nhiên nhằm tạo áp lực cho đất nước ta.
- Nguyễn Trãi đã lên án và tố cáo giặc Minh, và đây cũng giống như một bản cáo trạng ghi chép tội ác mà quân Minh đã gây ra cho ta.
III. Tóm lại
Tóm tắt lại nội dung và phong cách của đoạn trích.
Cảm nhận về đoạn 2 của Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi là một biểu tượng văn hóa toàn cầu, là một nhà chiến lược tài ba. Đặc biệt, ông còn được biết đến như một nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bài thơ 'Bình Ngô Đại Cáo', một tuyên ngôn chống lại sự xâm lược của quân Minh và thể hiện lòng yêu nước của Nguyễn Trãi cũng như của nhân dân Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ thứ hai của bài:
'Vừa rồi
...........
Ai bảo thần dân chịu được'.
Nếu đoạn 1 tập trung vào lập trường chính nghĩa thì đoạn 2 là một bản cáo trạng rõ ràng vạch trần tội ác của quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi đã tiết lộ những âm mưu đen tối của chúng: lợi dụng nhà Hồ trong tình trạng hỗn loạn, quân Minh đã tận dụng cơ hội để xâm lược nước ta:
Chính sự rối loạn trong triều Hồ,
Đã khiến lòng dân đau buồn.
Quân Minh đã nhanh chóng tận dụng thời cơ gây hại,
Bọn gian tà không ngần ngại bán nước vì lợi ích.
Năm 1406, nhân cơ hội nhà Hồ chiếm ngôi nhà Trần, quân Minh đã tổ chức một cuộc xâm lược với một lực lượng lớn gồm 20 vạn quân và hải quân cùng hàng chục nghìn lao động dân sự, dưới sự chỉ huy của Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc. Quân Minh chia thành hai nhóm: một nhóm do Trương Phụ chỉ huy tiến vào Lạng Sơn qua Bằng Tường, Quảng Tây, một nhóm do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam dọc theo sông Hồng. Quân Minh cũng sai người điều phối với vua Chămpa tấn công biên giới phía nam.
Trong suốt hai mươi năm thời kỳ đô hộ (1407-1427), chính quyền đô hộ của nhà Minh đã thực hiện nhiều biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh, xâm lược nước ta và tiêu diệt di sản văn hóa truyền thống của nhân dân Đại Việt để chiếm đất nước ta. Nhà Minh đã đốt sách vở, kể cả sách học của trẻ em, phá hủy các bia đá. Lịch sử ghi nhận tội ác của giặc Minh và 'Bình Ngô Đại Cáo' là lời tố cáo mạnh mẽ tội ác của chúng.
Tác giả khẳng định rằng đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và miêu tả những hành động dã man của chúng. Âm mưu xâm lược của quân giặc thì chính sách cai trị của chúng càng thâm độc. Chúng không chỉ bóc lột tài nguyên và sức lao động của dân ta mà còn phá hủy môi trường sống và tàn sát con người. Hai câu:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Đây là hình ảnh rất cụ thể, là một lời cáo trạng, lời buộc tội quân giặc. Văn học trung đại Việt Nam không có nhiều nhà thơ nêu hình ảnh “Dân đen”. Họ là nạn nhân của tội ác mà quân giặc đã gây ra. Nguyễn Trãi viết những câu văn này với tấm lòng nhân văn và sự cảm thông. Có thể nói, hai câu văn này được viết ra bằng máu và nước mắt của người anh hùng vì dân vì nước.
Bóc lột tài nguyên, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không thể nào diễn tả hết:
Độc ác vô biên, như núi Nam Sơn không đủ chứa hết tội lỗi,
Bẩn thỉu vô ngần, như nước Đông Hải không thể giải phóng khỏi mùi hôi.
Nguyễn Trãi chọn những điều vô cùng (núi Nam Sơn, nước Đông Hải) để nói về tội ác của một bọn quỷ dữ (kẻ đầy miệng độc, kẻ nhe răng). Chúng như những con thú dã man khát máu, chỉ nhăm nhe cắn xé nhân dân ta đến tận xương tủy. Hậu quả mà chúng gây ra thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ chồng xa cách, con cái thì đong đầy cảnh đau khổ, muôn loài bị hủy hoại, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân chịu đựng khổ cực.
Để làm sáng tỏ tội ác của quân giặc, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê cẩn thận, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, tức giận đến xương tủy với bọn xâm lược tàn bạo, lúc lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta.
Hai câu cuối kết án mạnh mẽ và đầy đanh thép:
Trời đất làm sao dung tha cho phép,
Thánh nhân dân ta có thể chịu đựng được?
Tội ác của giặc Minh đã vượt qua ranh giới của lẽ thiên. Hành động bẩn thỉu của chúng khiến cả thần và loài người đều không thể tha thứ.
Trên lập trường nhân nghĩa, đoạn văn này là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm hận đầy giận dữ của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù.
Nói ngắn gọn, đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác kinh hoàng của giặc Minh trong 20 năm trên đất Đại Việt.
Để tăng cường sức thuyết phục và đồng thời đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chương, Nguyễn Trãi đã sử dụng sự kết hợp hài hòa giữa những hình ảnh trừu tượng và những hình ảnh sinh động, cụ thể.
Nhờ tài nghệ và trí tuệ của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho Bình Ngô Đại Cáo trở thành một tác phẩm vĩ đại, bất diệt. Như vậy, văn học Việt Nam tự hào có một Nguyễn Trãi, và dân tộc Việt Nam tự hào có một Ức Trai.