Phân tích nhân vật Khách trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng bao gồm 2 dàn ý và 11 mẫu văn được lựa chọn kỹ lưỡng từ bài làm của các học sinh giỏi lớp 10. Điều này giúp các em có thêm nhiều ý tưởng tham khảo, mở rộng kiến thức và vốn từ vựng để viết những bài văn sâu sắc, ấn tượng.
Khách là một biểu tượng quen thuộc trong văn học vì thường xuất hiện trong thể loại phú với mối quan hệ giữa chủ và khách. Khách thường được dùng như một phản ánh của tác giả để thể hiện tâm hồn, cảm xúc và tư tưởng. Họ thường được miêu tả là tự do, rộng lượng: Đang buồm, cưỡi gió, lướt sóng, chơi với ánh trăng, mải miết cuộc sống. Dưới đây là 2 dàn ý và 11 mẫu văn phân tích nhân vật Khách xuất sắc nhất, mời các bạn theo dõi.
Dàn ý phân tích nhân vật Khách
1. Giới thiệu
- Giới thiệu về Trương Hán Siêu, tác phẩm Phú sông Bạch Đằng (hoàn cảnh ra đời của bài phú), giới thiệu về hình tượng nhân vật khách.
2. Phần chính
– Hình tượng nhân vật khách: tư thế của một con người có tâm hồn rộng lớn.
- Khách dạo chơi phong cảnh không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi dưỡng tri thức.
- Tình cảm cao thượng: “Nơi có … không biết”; “Đầm Vân Mộng chứa …… vẫn còn nguyên vẹn”.
– Tinh thần cao quý của khách được thể hiện qua hai loại địa danh:
- Các địa danh lịch sử của Trung Quốc: sông Hán, sông Nguyên, sông Tương, Vũ huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt - những nơi nổi tiếng, mà khách đã đi qua trong sách vở.
- Địa danh thứ hai là những địa danh của Việt Nam, như cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng - những hình ảnh hiện đại hiện ra trước mắt.
- Cảnh thiên nhiên hiện lên hùng vĩ, tuyệt đẹp “Bát ngát sóng kình muôn dặm – thướt tha đuôi trĩ một màu”.
- Nhưng cũng có những khung cảnh buồn tẻ, u ám “bờ lau san sát, bến lách đìu hiu – Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.
=> Tâm hồn giàu có, nhạy cảm của khách vừa hạnh phúc vừa tự hào trước cảnh sông hùng vĩ, thơ mộng “nước trời: một sắc , phong cảnh: ba thu”, tự hào về dòng sông còn ghi lại bao chiến công. Nhưng cũng đầy xót xa, tiếc nuối vì những chiến trường xưa đã trở thành một vùng đất hoang tàn, lạnh lẽo, thời gian đã phai nhạt bao dấu vết.
– Nghệ thuật: văn phong linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sống động, vừa tạo ra hình ảnh rõ ràng, vừa mang tính triết lý, ngôn từ uy nghi, hùng vĩ, vừa sâu lắng, gợi cảm.
3. Tóm lại
- Trong hình tượng nhân vật khách, bài thơ Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng và tư tưởng nhân văn cao đẹp. Sự ghi nhớ về quá khứ là sự tự hào về di sản dân tộc của tác giả.
Kế hoạch về hình tượng nhân vật Khách
I. Bắt đầu
- Trình bày về tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú
- Tổng quan về nhân vật “khách”: Đây là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm, là sản phẩm sáng tạo của tác giả để thể hiện cảm xúc, tư duy, tình cảm.
II. Tiếp theo
1. Hình tượng của khách trong các cuộc hành trình.
- Trong văn phong phú, khách thường là nhân vật quan trọng đại diện cho mối quan hệ chủ - khách. Khách thể hiện tâm hồn, tình cảm và tư tưởng của tác giả.
- Tâm hồn của khách tự do và mở cửa: Chinh phục biển khơi, đón gió, trượt sóng, trò chơi dưới ánh trăng, đắm chìm trong những sở thích cá nhân.
- Hiểu biết sâu sắc, rộng lớn: Khách thường được tác giả mô tả biết đến những danh lam thắng lịch sử như Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng qua sách vở và sự sáng tạo.
- Yêu thiên nhiên và trìu mến quê hương, đất nước: Trải qua hàng loạt địa danh nổi tiếng như Đại Than, Đông Triều, và dừng chân tại Bạch Đằng - biểu tượng của chiến công vĩ đại của dân tộc.
- Tâm hồn đam mê, tự do đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên: Được nhấn mạnh qua lời diễn đạt mạnh mẽ như “sớm Nhươn, Tương trưa, Vũ Huyệt chiều”, khách thực hiện một hành trình dài trong một ngày. Cuộc hành trình kéo dài đã làm tôn vinh bản thân khách.
2. Khách qua cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.
- Vẻ đẹp tự nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, lộng lẫy “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”, lãng mạn, thơ ngây “ba thu, nước trời một sắc”, trống trải, hiu quạnh “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.
- Tâm trạng của khách:
+ Hứng khởi, sảng khoái khi đối diện với vẻ đẹp lộng lẫy, thơ mộng của thiên nhiên
+ Đau buồn, tiếc nuối trước sự thay đổi của cảnh vật, nhớ về những người đã hy sinh
+ Tư thế “đứng lặng suy tư” cho thấy tâm trạng chìm đắm trong nỗi buồn, tiếc nuối của khách.
→ Khách nhận ra những đặc điểm tinh tế của cảnh đẹp, đa dạng của sông Bạch Đằng
→ Là người yêu thiên nhiên, tự hào về những phong cảnh hùng vĩ liên quan đến lịch sử dân tộc
3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.
- Khách không trực tiếp tham gia vào câu truyện của các bậc lão nhưng những câu chuyện về những chiến công hùng vĩ của một thời kỳ lịch sử đầy oai hùng, liên quan đến sông Bạch Đằng, đã khắc sâu vào tâm trí của khách, khơi dậy niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ vẻ vang của dân tộc.
- Khách đồng tình với các bậc lão trong việc giải thích nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời - địa lợi - nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh vai trò của con người. Cho thấy cái nhìn sâu rộng và nhân văn của các bậc lão và khách.
4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.
- Khách đã trực tiếp diễn đạt suy nghĩ của mình
- Khen ngợi sông Bạch Đằng - minh chứng cho lịch sử
- Khen ngợi hai vị anh hùng tài ba, đức độ
- Khen ngợi cuộc sống yên bình của dân tộc
→Xác nhận lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.
5. Nghệ thuật tạo dựng nhân vật.
- Miêu tả suy tư, hành động của nhân vật.
- Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ
- Ngôn từ trang trọng, uy nghi
- Cách kể và mô tả ngắn gọn nhưng giàu ý nghĩa biểu đạt.
III. Tổng kết
- Tóm tắt nội dung và nghệ thuật tạo dựng nhân vật
Nhận định về nhân vật Khách trong bài Phú sông Bạch Đằng
Nếu Lê Quý Đôn từng khen ngợi phú đời Trần: “khôi kì, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”, thì điều đó cũng đúng cho Bạch Đằng giang phú. Bài phú sử dụng nhiều hình ảnh, điển tích tinh tế, kết hợp với việc tạo dựng hình tượng nhân vật “khách” - một biểu tượng cho thời đại, cho cái tôi của tác giả, một cá nhân tráng lệ của quê hương.
Phú Sông Bạch Đằng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào về dân tộc kiên cường, bất khuất, mưu lược và nâng cao tinh thần, ca ngợi lòng dũng cảm và khẳng định vai trò, vị thế của con người trong lịch sử.
Mở đầu là hình ảnh của một con người tự do, thoải mái, sẵn lòng say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên:
Khách giơ buồm giong gió, chơi trốn
Chèo thuyền, hòa mình với sóng trăng.
Khách đi để mở rộng tầm hiểu biết, để khám phá những vùng đất xa xôi, biển rộng, sông hồ và những địa danh nổi tiếng:
“Qua cửa Đại Than…
… xương khô”
Trong những dòng thơ ban đầu, tác giả đặc biệt tạo ấn tượng về sự phong phú trong lịch sử của Bạch Đằng giang. Đó không chỉ là dòng sông địa lý mà còn là dòng sông lịch sử với hàng loạt sự kiện vĩ đại. Điều đáng chú ý là ngoài vẻ hùng vĩ trang nghiêm, sông Bạch Đằng còn mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng như những nàng thơ, nó hòa mình với sóng nước, với những chiếc thuyền trôi dập dềnh trên dòng sông. Thời gian và sự biến đổi của cuộc đời đã khiến cho cảnh sắc nơi đây vừa trữ tình vừa lãng mạn, đem lại cảm giác rất riêng cho những ai đắm chìm trong nó. Đây là nơi đã chứng kiến những trận chiến hào hùng, những chiến công vang dội trong lịch sử, nhưng cũng là nơi ghi lại biết bao nỗi đau thương, hi sinh với những hồn xương vĩnh viễn nằm dưới lòng sông. Đất trời như hiểu lòng người, nỗi buồn của quá khứ vẫn còn đọng lại, khiến cho thế hệ hiện tại không thể không cảm thấy tiếc nuối, xót xa cho những anh hùng đã khuất.
Những người “tráng chí bốn phương” với tâm hồn luôn “vẫn còn tha thiết”:
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Phần đầu này sử dụng một cách triệt để thủ pháp tượng trưng. Cái 'tráng chí bốn phương' của người khách được xây dựng từ những địa danh. Có loại địa danh gợi lên quá khứ xa xăm:
Sớm ra khơi từ Nguyên, Tương,
Chiều ghé thăm vùng đất của Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Cũng có thể nghĩ rằng đó chỉ là những suy tư của Trương Hán Siêu về các địa danh, bởi chúng đều là điểm tham quan nổi tiếng trong văn hóa, có lẽ ông đã tìm hiểu hoặc tình cờ gặp qua trong sách vở, nhưng chưa bao giờ đặt chân đến. Tuy nhiên, vì vậy, thiên nhiên như một mục tiêu tìm kiếm của ông có vẻ mang một ý nghĩa sâu sắc: đây là nơi văn hóa hội tụ, là điểm dừng chân để con người nhìn xa vào lịch sử. Trong bài phú về sông Bạch Đằng, sau những dòng kể trên, ông thể hiện ý nguyện muốn trải nghiệm như Tử Trường - Tư Mã Thiên, một nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc, trước khi bắt đầu viết, đã trải qua những ngày dài đi lại, cảm nhận và học hỏi...
Chú ý rằng nếu ở phần trước, các địa danh thực sự đều là ảo, thì ở đây mới là những địa danh thực mà tác giả đã trực tiếp đặt chân như cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng (Sông Bạch Đằng có nguồn chính chảy từ sông Lục Đầu, xưa gọi là cửa Bạch). Hai nhánh của sông là sông Chanh, dài khoảng 18km với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi đã mô tả: “Sông Vân Cừ (hay sông Bạch Đằng) rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vút, nước suối chảy xiết, sóng nước phủ đầy, cây cỏ mọc um tùm, đó là nơi hiểm nguy”. Không chỉ thế, ngày nay sông này vẫn còn được gọi là bến Rừng, phà Rừng trên đường sang Hải Phòng. Người Quảng Yên trước đây thường nói rằng “Con ơi, nhớ lời cha dặn/ Gió lạnh, nước lạnh không qua sông Rừng” để nói lên sự hiểm nguy của sông đó.) Nhà thơ đã đặt ra tên Bạch Đằng với dấu ấn lịch sử của trận chiến trên sông với những chiến công nổi bật của nó.
Thời gian trôi đi chậm rãi, không gian bao la để nổi bật sự thảnh thơi của nhân vật trữ tình nổi tiếng, tính cách cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Điều đó hoàn toàn phản ánh bản chất phóng khoáng, hào sảng của khách. Nhân vật khách cũng chính là 'cái tôi' của tác giả. Họ là những cá nhân sôi nổi, ham hiểu biết, mong muốn nuôi dưỡng tinh thần, sống cuộc sống tự do tự tại. Do đó, khách được giới thiệu với tất cả sự trân trọng, giống như cách tác giả tự nhận mình, tự giới thiệu: một linh hồn thơ cao quý, một du khách biển cả cũng là một người anh hùng luôn dành trọn trái tim cho đất nước, quê hương. Quả đúng, nhân vật khách có tính cách đặc trưng của thể loại phú vừa chân thực vừa sống động. Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng là những địa danh nổi tiếng mà khách đã đặt chân qua. Nếu như các địa danh Trung Quốc thể hiện sự tráng lệ bốn phương của khách, thì mỗi miền đất Việt mà khách đi qua đều mang dấu ấn của trái tim đập mạnh yêu nước.
….Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Trước hình ảnh Bạch Đằng “bát ngát sóng kình muôn dặm” , “ thướt tha đuôi trĩ một màu” với “ nước trời…”, “ phong cảnh…”, “ bờ lau…”, “ bến lách…” như đẩy lòng người rơi vào bức tranh tâm trạng với nỗi buồn vui man mác. Vui khi thiên nhiên ấy, dòng sông ấy vẫn sống vĩnh hằng nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, vui vì nó vẫn cuồn cuộn chảy dù mang trong mình bao dấu tích của cuộc chiến khắc nghiệt thế nhưng ta chợt thoáng buồn. Nỗi buồn khi yên bình hôm nay phải đánh đổi bằng máu xương của bao thế hệ cha anh đã nằm xuống, nỗi buồn vì trang sử hào hùng của dân tộc đã ghi hằn máu và nước mắt của biết bao trái tim quả cảm. Sự vấn vương ở đây có chút gì đó làm lòng ta nặng trĩu khi một phút trầm tư nhìn lại nhịp thời gian chảy trôi quá đỗi vô tình cũng như lòng người nhanh chóng đổi thay. Nói cách khác, những âm hưởng trữ tình đối lập ở trong tác phẩm đã tạo nên một ngân vang sâu thẳm và ngân vang này chính là triết lý: sự sống là một tiếp biến không ngừng không nghỉ, cái đang diễn ra và cái đã đi vào vĩnh cửu cứ đan quyện lấy nhau, mà cái nhân tố có khả năng kết nối làm nên sự đan quyện ấy, khiến cho sợi dây chuyền vô hình nghiệt ngã của thời gian có lúc tưởng như bị đảo ngược: hiện tại không hẳn đã trôi về quá khứ tất cả, mà có phần nào đó còn trôi theo chiều ngược lại, còn có “dấu vết lưu lại” với hậu thế.
Như vậy qua hình tượng nhân vật khách, ta thấy chân lí: Hào kiệt đời nào cũng có, đó là sức mạnh, là niềm tin, cũng là niềm tự hào dân tộc tư tưởng nhân văn cao đẹp. Với tâm trạng hân hoan, khách vừa đề cao công lao to lớn của các vị anh hùng đời Trần, vừa bày tỏ niềm tin vào tương lai vững mạnh, trường tồn và nêu cao đức cao của dân tộc. Sức mạnh của non sông đất nước không phải ở địa thế hiểm trở mà nằm chính ở niềm tin và ý chí kiên gan bền bỉ của con người (Giặc tan muôn thuở thanh bình – Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao).
Câu từ đơn giản nhưng cuốn hút, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình đặc sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát triết lý, ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, là ngôi sao sáng ngời khẳng định chủ quyền dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc “khắc họa một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước”, là “một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học thời trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.”.
Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 2
Người nghệ sĩ ra đi, nhưng tác phẩm anh để lại cho đời là bất tử. Và những tác phẩm lại sống trong lòng người đọc muôn thế hệ bằng những thông điệp nhân văn, bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị. Có thể nói, bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đã xây dựng được một hình tượng nhân vật như thế trong dòng chảy lịch sử văn học Việt Nam. Hình tượng nhân vật khách.
Phú là một thể văn cổ, có những đặc điểm và quy phạm riêng, về mặt xây dựng nhân vật và hình tượng, thì trong bài phú nhân vật khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão) Nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm, mạch chảy mạch kết cấu của văn bản theo toàn bộ những dòng suy tưởng, đó là sự bộc bạch cái tráng chí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng.
Mở đầu bài phú, nhân vật khách xuất hiện như một bậc tao nhân mặc khách với tráng chí bốn phương ngao du sơn thủy, lấp đầy tâm hồn mình bởi vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ của thiên nhiên non sơn kỳ thú:
“Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt”
Các từ 'chơi vơi', 'mải miết' tạo cho người đọc một cảm giác mới mẻ về nhân vật khách, một bậc tài tử lãng du cùng với thú vui sơn thủy, đắm chìm trong không gian rộng lớn, thơ mộng khoáng đạt. Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành người bạn của nhân vật khách với thú vui tao nhã. Cách liệt kê một loạt những địa điểm nổi tiếng cho thấy khả năng đi nhiều, biết nhiều và tráng chí bốn phương của nhân vật khách, gợi nên một tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du và mang vẻ đẹp lộng gió như được hơi thở của thiên nhiên đằm vào điệu tâm hồn nhân vật.
Tiếp tục người đọc nhận thấy rằng, trong rất nhiều điển tích điển cố, chỉ có điển tích Tử Trường được nhắc đến, nhưng sự gợi nhắc của tác giả ở đây không phải để nhấn mạnh về việc nhân vật khách học cách ghi chép sử ký, mà là học cái thú tiêu dao, ngao du sơn thủy của những bậc tài tử ngày trước.Đó không chỉ là việc trau dồi, học hỏi trong những hành trình đã đi qua, mà còn là sự chiêm nghiệm của nhân vật khách đầy sâu sắc về những thắng cảnh lịch sử của dân tộc. Cụ thể, là ở đoạn thơ sau, khi nhân vật khách hồi tưởng về quá khứ hào hùng mà cũng đầy bi thương của dân tộc.
“Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Khác hẳn với không gian rộng lớn và khoáng đạt trên kia, cảnh vật giờ dường như đã hóa thảm sầu, nhuốm một màu buồn thấm lan tỏa lên toàn bộ bức tranh chung. Đó là niềm xót thương, cũng là sự câm lặng nén chặt đau thương khi nghĩ đến những người anh hung, những người chiến sĩ đã hi sinh, đã ngã xuống, đã hóa thân linh hồn mình vào mảnh đất nơi đây. Đó là phút trầm mặc để tri ân, để tưởng niệm về những cống hiến và sự hi sinh vĩ đại của họ. Những dấu vết xưa còn lưu lại như một gợi nhắc về dấu phong xưa, về quá khứ vàng son của lịch sử dân tộc, đồng thời là một điểm tựa lịch sử để thế hệ sau noi gương, trau mình.
Từ tiếc được đặt ở đầu câu thơ, thể hiện mạnh mẽ cảm xúc trong lòng nhân vật khách, đó là sự tiếc nuối và nỗi buồn hoang hoải của nhân vật khách khi chứng kiến sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Theo dòng cảm xúc ấy, bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Con sông Bạch Đằng đã là nơi ghi dấu của những chiến tích lịch sử hào hùng, nơi mà quân địch thất bại ê chề nhục nhạc, giọng kể vừa hào hùng vừa xen lẫn những yếu tố lãng mạn, tạo cảm giác đầy cuốn hút cho người đọc. Khiến cho dẫu người đọc đến từ những thế sau, vẫn cảm nhận một cách chân thực, sống động quá khứ lịch sử hào hùng của cha ông, để cùng hòa điệu, hòa nhịp với dòng chảy lịch sử oai hùng của một thời kì vĩ đại.
Sự hồi tưởng về quá khứ vẻ vang mà cũng đầy đau thương của nhân vật khách phải chăng chính là đang thể hiện một vẻ đẹp đạo lí truyền thống ngàn đời của dân tộc, đó là uống nước nhớ nguồn, tìm về, nhớ về quá khứ lịch sử là một cách để tri ân, để tưởng nhớ, và để sửa mình sao cho đúng đắn với sự hy sinh mà cha ông ta đã bỏ ra.
Qua ngòi bút tài hoa của Trương Hán Siêu, thông qua dòng chảy trong mạch cảm xúc của nhân vật khách như giúp người đọc bước vào thế giới lịch sử xa xưa, để cùng cảm nhận về những thành tựu vẻ vang, cũng như sự mất mát hi sinh lớn lao không gì tả xiết của những thế hệ đã ngã xuống. Và một lần nữa, cho ta hiểu thêm về tráng trí hải hồ ngao du của nhân vật khách.
Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 3
“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấm lòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.
Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,…
Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:
“Ở nơi mà người đi
Không chỗ nào không biết”.
Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn mở ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thỏa lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.
“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: hòa mình với thiên nhiên, coi trọng chữ “nhàn”, gián tiếp phủ định về vinh quang và danh tiếng tục lẹ.
“Qua cánh cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”
Đoạn văn tiếp theo tả niềm vui sướng của nhà thơ khi đến thăm sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo đuổi cái chí của người xưa “học Tử Trường” đi về phía Đông Bắc, mở buồm để thoả sức “tiêu diêu”. Người xưa đã nói: “Muốn học văn của Tư Mã Tử Trường thì phải học cách chơi của Tử Trường”. Tử Trường chính là Tư Mã Thiên, tác giả của bộ “Sử ký” bất hủ, là một nhà văn, nhà sử học tài ba thời Hán. Người đó được coi là một nhà du lịch lỗi lạc thời xưa. Trương Hán Siêu, với cánh buồm thơ, lướt dọc theo dòng sông núi:
“Vượt qua cửa Đại Than, đối mặt với sóng Đông triều,
Đến sông Bạch Đằng, chèo bèn lắc”
“Bát ngát sóng kình trải dài hàng ngàn dặm”
Bạch Đằng giang, con sông hùng vĩ của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, sóng nước cuồn cuộn nhấp nhô. Vào cuối thu (ba thu) bầu trời và nước biển đều một màu xanh rộng lớn “Bát ngát sóng kình trải dài hàng ngàn dặm – Thanh lọc như lông trĩ, màu sắc của trời nước: một sắc- Phong cảnh mùa thu”.
Câu văn mượn hình ảnh từ bài “Đằng Vương các” của Vương Bột “Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với bầu trời xa một màu). Mô tả sóng nước Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) đã viết: “Sóng cuồn cuộn ăn trọn cả triều dâng, cuộn trôi nỗi buồn… Trông thấy dòng sông vẫn đầy sóng bắt lấy ánh mặt trời buổi chiều đỏ bừng- Lầm tưởng như là máu của những người đã chết vẫn còn chưa khô” (Bạch Đằng giang – Dịch nghĩa). Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường kinh hoàng một thời:
“Bờ lau cùng nhau chồng chất
Bến dọc bề mặt sóng nổi trầm
Sông cuồn cuộn, cỏ rậm đặc đày
Đất ngập tràn xương cốt'
Bờ lau, bến lách tạo nên bức tranh hoang vu, u ám. Núi đồi, bờ bãi như gươm giáo, chứa đựng xương cốt của kẻ thù phương Bắc. Thảm kịch ấy, một thế kỷ sau, Ức Trai cũng viết về: “Bờ non dày cỏ gầy – Sông sâu chứa gươm rơi từng ngày” (“Cửa Biển Bạch Đằng”).
Trương Hán Siêu mô tả sông Bạch Đằng bằng những đường nét, màu sắc sôi động. Những tưởng tượng mới về dòng sông lịch sử hùng vĩ được truyền đạt qua những cặp câu đẹp mắt và tứ tự tinh tế. Mấy chục năm sau trận thắng trên sông Bạch Đằng (1288), nhà thơ đến viếng thăm dòng sông, đầy xúc động:
“Buồn vì cảnh bi thảm
Lặng im suy tư
Nhớ những anh hùng xa vắng
Tiếc thương dấu vết hào quang còn mãi”.
Tâm trạng buồn bã, tiếc nuối, cùng với sự im lặng suy tư của “khách” thể hiện sự xúc động, lòng biết ơn và tôn kính vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hy sinh máu và xương để bảo vệ sông núi, và sự sống còn của dân tộc. Đó là tình nghĩa bền chặt “uống nước nhớ nguồn”
“Nhưng nhục của quân thù, họ không thể rửa sạch được”
Các cụ già – những nhân vật thứ hai được đề cập trong bài phú. Từ sự mô tả đến sự trữ tình, nhà thơ chuyển từ việc tả cảnh sang chia sẻ cá nhân, ngôn ngữ sống động biến hóa rõ rệt. Cảm hứng lịch sử với bản hùng ca của anh hùng được thể hiện mạnh mẽ như những đợt sóng trên dòng sông Bạch Đằng. Khách và cụ già nhìn con sóng nhấp nhô, như thấy hồi sinh những thời kỳ hào hùng oai vệ của tổ tiên.
Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 4
Trương Hán Siêu là một người tính cương trực, uyên tâm, được các vua Trần tín nhiệm và ưa thích. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất thời Trần, mặc dù số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Bạch Đằng giang phú là tác phẩm nổi bật nhất, với hình ảnh nhân vật “khách” gây ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Nhân vật “khách” có niềm đam mê khám phá bốn phương, tinh thần tự do, rong ruổi:
Giương buồm theo gió, lang thang
Trên biển trăng sáng, say đắm…
Các địa danh như Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô,… đều là những danh lam thắng cảnh ở Trung Quốc, nơi mà ai cũng mong ước được đặt chân đến. Nhân vật “khách” sử dụng những địa danh này để thể hiện niềm đam mê, sự hứng thú du ngoạn bốn phương. Sự đan xen giữa các từ đối lập như sớm – tối cho thấy sự hứng thú với việc du ngoạn khắp nơi của nhân vật. Qua đó, cũng thể hiện mong muốn khát vọng khám phá và tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của các vùng đất mới. Mặc dù đã đi khắp nơi nhưng niềm hứng thú với bốn phương vẫn chưa mời phai. Đằng sau đó, ta còn thấy mong muốn thực sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn là học hỏi theo Tử Trường, để hiểu rõ hơn về lịch sử dân tộc.
Dưới ánh mắt của nhân vật “khách”, hình ảnh sông Bạch Đằng hiện ra trước mắt vô cùng sống động. Cảnh sông Bạch Đằng mênh mông, rộng lớn, tràn đầy hùng vĩ với bầu trời xanh thẳm: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Song song với đó là bức tranh u tối, u ám, hiu quạnh với dấu vết của những trận chiến đã qua: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Hai bên bờ chẳng có gì ngoài bờ lau liên tục kết nối với bến lách. Hai từ này tăng cường ý nghĩa, hỗ trợ nhau để làm nổi bật sự hoang vắng, trống vắng của không gian. Nhìn sông, nhân vật “khách” liên tưởng đến đáy sông chứa đựng vũ khí bị bỏ lại sau những trận chiến, nhìn như liên tưởng đến nghĩa trang của những người đã hy sinh ở đây. Câu thơ này gợi nhớ đến bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi:
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm tích chiến ngạn tằng tằng
Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh vào cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên của dân tộc ta với bối cảnh lạnh lẽo, hoang vắng. Đồng thời thể hiện sự thương tiếc đối với những người đã khuất tại đây. Đứng trước không gian này, nhân vật “khách” bị sốc, hạnh phúc, mãn nguyện khi ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của quê hương. Nhân vật “khách” đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh tốt nhất để miêu tả lại khung cảnh mà mình chìm đắm ngắm nhìn, và sau đó cảm thấy ngỡ ngàng khi nhận ra rằng sau vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng đó, sông Bạch Đằng vẫn lưu giữ những dấu vết của những chiến công đã qua. Câu thơ này đánh dấu sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật “khách”: Từ một người hào hứng, say mê, có tâm hồn phóng khoáng, tự do chuyển sang trầm tư, buồn thương, tiếc nuối: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Sau những trạng thái cảm xúc đó, người đọc có thể hoàn toàn hiểu được bản chất của nhân vật “khách” – hay cũng chính là tác giả - một con người có tâm hồn phóng khoáng, ham thích tìm hiểu lịch sử dân tộc và yêu thương quê hương.
Hình tượng nhân vật “khách” một lần nữa được tái hiện qua phần kết của tác phẩm, với những lời khen ngợi hò ứng với sự khen ngợi của những bô lão. Nhân vật khách đã thể hiện chân lý của các bô lão như đã được nêu ở trên: Những người vĩ đại luôn được tôn vinh/ Vĩnh hằng chỉ có anh hùng lưu danh. Hai anh hùng được nhắc đến chính là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ mãi mãi được tôn vinh, tiếng thơm sẽ lan tỏa mãi mãi. Không chỉ vậy, ông còn khen ngợi sông Bạch Đằng, ghi dấu những chiến công anh hùng trong lịch sử dân tộc. Mượn ý trong câu thơ Đỗ Phủ “Tịnh tẩy giáp binh trường bất dục” (rửa sạch vũ khí mãi mãi không dùng đến), thể hiện mong muốn có một cuộc sống hòa bình độc lập. Đây cũng chính là mục tiêu của cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù ngoại xâm. Ông ca ngợi yếu tố nhân văn, nhất là đạo đức: Kẻ thù tan biến mãi mãi trong yên bình/ Vì tinh thần cao quý của con người. Chiến thắng mà chúng ta giành được không chỉ nằm ở sức mạnh vũ trang mà yếu tố quyết định thực sự là nhân văn của con người. Câu thơ đã cho thấy giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Bằng lời văn hùng hồn, điệu biến đa dạng, nhân vật “khách” hiện ra như một người yêu quê hương đất nước một cách sâu sắc, không chỉ vậy mà ông còn là người có đam mê khám phá, mở rộng tri thức của bản thân. Ngoài ra, những dòng thơ cuối cùng của bài viết cũng cho thấy tầm nhìn xa lớn, lòng nhân văn sâu sắc của nhân vật trữ tình.
Phân tích về nhân vật Khách trong bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 5
Trong sự nghiệp văn học của mình, Trương Hán Siêu không sáng tác nhiều nhưng có lẽ chỉ cần một Bạch Đằng giang phú cũng đủ để làm nên tên tuổi của ông. Đọc bài ca, hầu hết mọi người đều đồng tình rằng nhân vật “khách” chính là bản thân tác giả và sự hiện diện của nhân vật này mang ý nghĩa rất quan trọng.
Mở đầu bài phú, hình tượng nhân vật “khách” xuất hiện làm ấn tượng trong lòng mỗi người bởi sự say mê khám phá. “Khách” lang thang để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, để khám phá vẻ đẹp của quê hương, để bổ sung tri thức. Tư thế của “khách” chính là tư thế của một con người có tinh thần mở cửa, hoài bão to lớn:
Ở đâu cũng biết điều,
Đầm Vân Mộng chứa bao tri thức, trong lòng cũng nhiều,
Nhưng lòng người với bốn phương vẫn luôn chân thành.
Chân thành của “khách” thực ra cũng chính là chân thành của Trương Hán Siêu. Nó được thể hiện qua những địa danh mà “khách” đã đi qua. Có những địa danh mà “khách” thăm qua trong sách vở, trong tưởng tượng:
Chớp mắt thuyền qua Nguyên, Tương,
Chiều ghé thăm Vũ Huyệt
Không gian mà “khách” đã đi qua thường là những không gian rộng lớn như biển khơi (đi lướt sóng chơi trăng), sông hồ (Cửu Giang, Ngũ Hồ), là những vùng đất nổi tiếng như Tam Ngô, Bách Việt, Vân Mộng… Những chuyến phiêu lưu trong tưởng tượng như thế thể hiện tráng chí bốn phương của “khách”. Điều đáng quý là không phải vì chơi xa mà “khách” quên đi yêu quý những thắng cảnh của đất nước mình. Và đó chính là lý do khiến “khách” dừng chân tại sông Bạch Đằng:
Qua cửa Đại Than, chèo bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền lướt một chiều.
Rồi, khi thuyền trôi đến nơi trên dòng sông ấy, trong lòng “khách” cũng hiện lên những cảm xúc tự nhiên, chân thành. Có lúc tráng chí bay cao cùng thiên nhiên hùng vĩ:
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Cũng đôi khi trái tim của “khách” chìm đắm trong khung cảnh hiu hắt, buồn bã:
Bờ lau gần kề, bến lách rêu phong.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Sự hiện diện của nhân vật “khách” trong Bạch Đằng giang phú kết nối với hình ảnh thiên nhiên thể hiện tinh thần lãng mạn và tình yêu quê hương đất nước của nhân vật, cũng như của Trương Hán Siêu. Trong phần tiếp theo của bài thơ, tác giả đã cho nhân vật “khách” thảo luận với các bô lão xung quanh về chủ đề: cuộc chiến và chiến thắng của quân đội nhà Trần trước quân Nguyên Mông. “Khách” nghe các bô lão kể về chiến công Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã. Sau khi nghe về trận chiến, “khách” phát biểu và suy ngẫm về chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Trong cuộc trò chuyện, nhân vật “khách” là người lắng nghe câu chuyện, đồng thời cũng là người nói lời cuối cùng, tóm tắt những gì được kể và bình luận bởi các bô lão:
Chinh chiến hai vị thánh vương,
Sông đây rửa sạch vạn lần vũ khí.
Giặc tan muôn thuở hòa bình,
Bởi vì đức cao, không sợ đất hiểm.
Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện mạnh mẽ trong những câu thơ này và chính “khách” là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của “khách” khẳng định vai trò, vị thế quan trọng của con người trong cuộc trùng hưng đất nước. Theo Trương Hán Siêu, chiến thắng không phải ở đất đai hiểm trở mà chủ yếu là ở đức tính lớn lao, là sức mạnh của con người. Không có con người thì các yếu tố “thiên thời, địa lợi” cũng không thể giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật “khách” thể hiện sự tôn kính đối với hai vị vua Trần (Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông). Khen ngợi công lao vĩ đại của con người qua hàng nghìn năm là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm xúc mang giá trị nhân văn có sâu sắc triết lí.
Như vậy, nhân vật “khách” hiện ra trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây là biểu tượng của tâm trạng trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. “Khách” không chỉ là hình tượng trong bài phú mà còn thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc và tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hiểu rõ hơn về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.
Phân tích nhân vật Khách - Mẫu 6
Nhân vật khách là sự thể hiện của tác giả. Nhân vật này thú vui du ngoạn là để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên và để tìm hiểu lịch sử đất nước. Hai câu đầu tiên cho thấy sự say mê với vẻ đẹp tự nhiên và tâm hồn rộng lớn của nhân vật. Các địa danh Trung Hoa được nhắc đến cho biết tác giả cũng đã du ngoạn xứ người thông qua sách vở và trí tưởng tượng. Tâm hồn và kiến thức nhờ đó mà được phát triển phong phú. Tuy nhiên, vẫn còn một mong muốn chưa thực hiện được, tác giả vẫn muốn khám phá rộng lớn trong lĩnh vực tri thức: Mà tráng chí bốn phương vẫn còn đầy hoài bão.
Tác giả cho rằng mình học Tử Trường (Tư Mã Thiên) để du ngoạn. Điều đó có ý nghĩa là tác giả không chỉ say mê vẻ đẹp tự nhiên mà còn có ý thức về lịch sử dân tộc, mong muốn thu thập và lưu giữ những kỳ tích, chiến công của nhân dân qua nhiều thế hệ mà có thể chưa được công nhận hoàn toàn. Ý thức lịch sử và tinh thần yêu nước của học giả đáng được ca ngợi. Trở về với những điểm đẹp của đất nước, tác giả không khỏi cảm thấy sung sướng và tự hào:
Qua cửa Đại Than, lên bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền đi một chiều.
Bát ngát sóng kình vô biên,
Thướt tha đuôi trĩ màu nắng chiều.
Đây chính là điểm đến mà tác giả từng ao ước, chờ đợi. Bây giờ được nhìn thấy nó trực tiếp, tận mắt chiêm ngưỡng, thực sự rất hào hứng và phấn khích, hình ảnh hùng vĩ và sôi động của cuộc sống ghe thuyền buôn bán trên vùng đất phồn thịnh này mới thật sự rõ ràng. So sánh về danh thắng giữa nước ta và Trung Hoa, tác giả tự hào về những danh thắng của đất nước mình. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc ngắm cảnh, tác giả còn muốn hiểu biết về lịch sử, nhìn dòng sông như là một biểu tượng của thời gian, cảm nhận được những hình ảnh của những trận chiến đã qua, những anh hùng nay đã trở thành huyền thoại cổ xưa:
Bờ bên cỏ xanh mướt, bến thuyền êm đềm.
Dòng sông êm đềm, bãi cát rợp lá khô,
Chán chường với cảnh bi kịch, đứng nhìn mãi không chán.
Thương nhớ anh hùng ở đâu đã mất,
Tiếc thương dấu vết quá khứ vẫn còn đọng lại!
Không khí của những lời ca trầm lắng mở ra một khung cảnh tuyệt vời, trong sáng nhưng cũng u buồn, trầm mặc. Những lời ca ẩn chứa nỗi lo âu, bất an. Trong đó, có dấu vết của nỗi buồn thương cho sự biến đổi không ngừng: trận chiến dữ dội, những anh hùng huyền thoại đã phai nhạt theo thời gian. Nỗi tiếc thương về quá khứ đó thể hiện lòng tôn kính sâu sắc đối với tiền nhân. Hình ảnh nhân vật xuất hiện trong đoạn đầu thể hiện tinh thần đẹp và ý thức dân tộc giàu có.
Trận chiến Bạch Đằng xưa được tái hiện qua câu chuyện của những người lão thành. (Từ câu: Bên bờ, các cụ kể rằng... đến câu: Nghìn thu chỉ có danh tiếng của anh hùng). Các cụ là những cá nhân địa phương, là người dân địa phương, cũng có thể là tác giả. Thái độ của họ đối với khách: vừa kính trọng (vái gật) vừa nồng hậu, hào hứng kể chuyện cổ. Họ cũng tự hào về quê hương lịch sử của mình thông qua một câu chuyện dài như lịch sử bảo vệ đất nước:
Đây là nơi chiến trường của Trùng Hưng hai vị thánh đã từng tham gia
Ô Mã vẫn là mảnh đất huyền thoại từ xa xưa
Khi Ngô chúa xâm lược Hoằng Thao.
Họ đã tái hiện cảnh chiến trường qua bút pháp chấm điểm:
Thuyền bè chật kín, huyền diệu đầy ắp
Sáu quân anh hùng, gươm sáng lấp lánh.
Trận đánh thất bại không phân định,
Chiến hào từ bắc đến nam đều đối mặt.
Ánh mặt trời và ánh trăng bị che khuất,
Bầu trời đã sẵn sàng thay đổi.
Cách kể chuyện khéo léo, súc tích, chỉ tập trung vào những điểm chính để tái hiện toàn bộ bức tranh, cảnh diễn và tinh thần chiến trường. Cuộc đối đầu trên sông điên cuồng và hùng vĩ, trận chiến kịch tích đầy cam go và quyết liệt, trời đất bùng nổ, khói lửa bao phủ. Phương pháp kể chuyện đã thể hiện sức mạnh vượt trội, và cuối cùng chiến thắng tuyệt vời thuộc về quân ta, thể hiện rõ “tinh thần Đông Á” đặc trưng. Nhận xét của người kể chuyện:
Bọn giặc ganh tị, thiếu lòng nghĩa phải chịu thất bại. Đó là sự nhục nhã của kẻ thù không thể xóa sạch và là bài học lịch sử: Đến bây giờ dòng sông vẫn chảy mãi Nhưng nhục của kẻ thù không bao giờ phai nhạt! Chiến thắng vinh quang của chúng ta là nhờ vào địa thế hiểm trở và những con người tài năng. Nhận xét vừa tự hào vừa ngưỡng mộ, tôn vinh lịch sử bảo vệ quê hương:
Thật vậy: Trái đất luôn ẩn chứa nguy hiểm,
Và nhờ: Con người tài năng bảo vệ cuộc sống an lành.
So sánh trận chiến Bạch Đằng với những trận đánh nổi tiếng của Trung Hoa như Xích Bích, Hợp Phì, chứng tỏ sự uy danh và quyền lực tương đương, khẳng định sự thông minh của Ngô Quyền và sự kiên trì của vua Trần, truyền bá vô hạn. Sự so sánh cũng thể hiện lòng tự hào dân tộc. Đoạn phú tự sự với dáng vẻ của một sử thi, một ca anh hùng và niềm kiêu hãnh lịch sử qua tiếng kể sôi nổi, hùng tráng và trang trọng,
Lời ca cuối của các bô lão:
Dòng sông hùng vĩ chảy mãi không ngừng.
Anh hùng chính trực sẽ để lại dấu ấn đẹp đẽ cho đời sau.
Đó là chân lý bất biến. Lời ca phản ánh lòng hào hứng, tự hào vẹn tròn cùng dòng sông và hình bóng của các bô lão vẫn lặng lẽ theo dòng nước khuất sau bờ cây lau cao.
Lời ca của du khách bèn thế: (Còn lại)
Hiển hiện hai vị anh hùng thượng đế
Dòng sông này rửa sạch hai lần quân địch.
Kẻ thù tan biến muôn đời trong hòa bình
Bởi đất này, sức mạnh văn minh vượt lên.
Tác giả cũng tôn vinh phẩm hạnh và tài năng của hai vị vua nhà Trần: Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông nhưng không giống như các bô lão, Trương Hán Siêu tôn trọng vai trò của con người hơn là dựa vào điều kiện địa lý khó khăn và khẳng định sức mạnh của đức tính. Đó là chân lí, là lẽ phải làm nên chiến thắng.
Lời kết thúc bài phú vừa thể hiện lòng tự hào dân tộc vừa phản ánh tư tưởng nhân văn cao cả. Ý nghĩa: Thông qua việc tái hiện chiến công lịch sử hùng vĩ trên sông Bạch Đằng và bình luận, bài phú đã ca tụng sự hào hùng của anh hùng, niềm tự hào dân tộc và tinh thần nhân văn cao cả. Đây là một tác phẩm đáng chú ý trong thơ văn yêu nước thời Lí – Trần. Giá trị nghệ thuật: Cấu trúc cơ bản nhưng hấp dẫn, cấu trúc chặt chẽ, ngôn từ trang trọng và sâu sắc, hình ảnh nghệ thuật sống động (du khách, bô lão, cảnh chiến trường…), phong cách phong phú…
Phân tích nhân vật Du Khách - Mẫu 7
Văn học dân tộc đã ghi lại vô số hình ảnh đẹp. Như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Vua Lí Công Uẩn đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Khai quốc công thần Nguyễn Trãi hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và sau 50 năm chiến thắng trên sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đầy hoài niệm trong Phú sông Bạch Đằng. Để bộc lộ xúc cảm, bậc nho sĩ Trần đã thông qua hình tượng khách, tạo nên một tác phẩm xuất sắc trong thơ văn trung đại.
Trong loại phú cổ thể, khách là một nhân vật tưởng tượng, được tác giả xây dựng để đối đáp với các bô lão. Trong Phú sông Bạch Đằng, khách trở thành trung tâm. Tác phẩm vẫn đáp ứng đầy đủ cấu trúc văn bản, nhưng tập trung vào cảm xúc của khách. Đây là sự bộc bạch của tâm trạng và niềm vui về quá khứ huy hoàng của dân tộc trên sông Bạch Đằng.
Khách như thế:
Giương buồm trên biển với gió,
…
Học Tử Trường say mê du dương
Thể hiện qua hình ảnh sôi nổi, cường điệu gió trên biển, lướt trăng trên biển, sớm rời bến, chiều quay về, khách là người có tâm hồn rộng lớn, yêu thích du lịch. Với sự mải miết của mình, khách như đang sống trong giấc mơ hải hòa. Phép liệt kê dẫn dắt khách đến những vùng đất xa xôi, rồi quay trở lại sông Bạch Đằng. Mặc dù chưa từng đặt chân đến những vùng đất đó, nhưng khách đã thể hiện sự hiểu biết sâu rộng và lòng say mê khám phá. Khát vọng, hoài bão được thỏa mãn, du lịch tiếp tục. Không chỉ để ghi chép, mà còn để trải nghiệm. Vậy nên cảnh Tử Trường không chỉ là học hỏi lịch sử, mà còn là trải nghiệm cuộc sống. Cuối cùng, cảnh vật hiện ra:
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
…Nước trời: một màu, phong cảnh: ba mùa
Theo cánh buồm nhẹ nhàng, khách từ từ tiến về sông Bạch Đằng. Và trước mắt là cảnh tượng tuyệt vời của mùa thu. Bút pháp lãng mạn miêu tả bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp như mơ. Bạch Đằng với sóng kình muôn dặm không ngừng, thuyền đuôi trĩ trôi nổi, và cảnh trời nước hòa quyện nhau tạo nên bức tranh thơ mộng. Khách, với con mắt nghệ sĩ và tâm hồn yêu thiên nhiên, đã vẽ nên một bức tranh mùa thu tuyệt đẹp.
Niềm vui trước vẻ đẹp thiên nhiên làm cho khách liên tưởng đến những bài thơ như của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Cao Bá Quát. Trương Hán Siêu, dù không như họ, vẫn đến với thiên nhiên để thỏa mãn lòng mong muốn hiểu biết và tôn vinh công lao của cha ông. Khách hiện lên là hình ảnh của một trí thức yêu nước. Nhưng khi đối diện với sự thật của chiến tích, cảm xúc của khách thay đổi từ vui sướng sang buồn bã.
Bờ lau sát bên, bến lách rũ rượi
…Tiếc nuối dấu vết đã phai mờ!
Bút pháp tả thực đã vẽ nên cảnh tượng tương phản hoàn toàn. Khung cảnh xưa kia trở nên u ám và đau lòng. Bờ lau, bến lách như đong đầy nỗi buồn. Sự tan tác của thời gian khiến dấu vết của chiến tích trở nên mờ nhạt. Khách cảm thấy buồn bã và tiếc nuối, bởi dấu tích vĩ đại đã phai mờ.
Trước khi rời đi, khách nhìn lại, thấy mọi thứ đã trở nên trống vắng
Khi đến bên bờ sông, ngắm cảnh, lòng khách bâng khuâng
(Cửa biển Bạch Đằng)
Những cảm xúc dồn nén trong lòng thi nhân biến thành ước mong được sống lại những khoảnh khắc hào hùng của quá khứ. Các vị bô lão, những nhân vật trong câu chuyện, tái hiện lại quá khứ, gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào về chiến thắng trên dòng sông lịch sử. Ca ngợi sông Bạch Đằng là biểu tượng của sức mạnh vĩ đại, là nơi của những chiến công hào hùng. Lời kể mang đậm chất ước lệ, cảm xúc hùng hồn đã tái hiện lại những trận đánh hào hùng trong quá khứ.
Từ lúc thắng trận, ánh sáng bị che khuất, trời đất dần thay đổi khi kẻ thù bị tiêu diệt, nỗi nhục nhã không thể xóa nhòa. Khách tỏ ra kiêu hãnh và mãn nguyện về quá khứ hào hùng của dân tộc. Khách thấu hiểu rằng thành công phụ thuộc vào sự hòa hợp giữa thiên nhiên, địa lý và con người. Và khách tôn vinh những anh hùng, đặc biệt là những vị vua thông minh, những người đã ghi dấu ấn sâu trong lịch sử bằng công lao vĩ đại của mình.
Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao
Có lẽ dòng sông Bạch Đằng cũng phản ánh tâm trạng của những nhà thơ, những thi nhân. Sông cuồn cuộn, nhưng cũng chứa đựng những tâm tư, ước vọng về quá khứ và lo lắng về hiện tại. Khách đã khơi gợi những giá trị văn hóa sâu sắc của dân tộc, đồng thời thể hiện sự lo âu về thực tế xã hội.
Nhân vật khách trong bài phú đã được tạo hình thành công, trở thành biểu tượng của văn học thời kỳ đó. Khách là sự kết hợp của những phẩm chất của tác giả, đồng thời truyền đạt những giá trị lịch sử và truyền thống của dân tộc.
Phân tích nhân vật Khách - Mẫu 8
Sông Bạch Đằng từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ. Nguyễn Sưởng đã viết trong bài “Bạch Đằng giang” như sau:
“Mồ thù như núi, cỏ cây tươi
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời.
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết
Nửa do sông núi lửa do người.”
Mặc dù ngắn gọn, nhưng bài thơ khá mạnh mẽ và hùng tráng, miêu tả dòng sông Bạch Đằng với những chiến công lịch sử của Việt Nam. Trong tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”, Trương Hán Siêu đã sử dụng thể phú cổ độc đáo để thể hiện lòng tự hào về lịch sử dân tộc cũng như nhấn mạnh vai trò của anh hùng Trần. Bằng cách hình dung nhân vật khách, ông đã truyền đạt được tinh thần và chiến công vang bóng trên sông Bạch Đằng.
Trương Hán Siêu, hay còn gọi là Thăng Phủ, là người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Ông là một trong những môn khách của Trần Hưng Đạo, đã tham gia vào các trận đánh chống lại quân Mông-Nguyên và giúp đánh tan kẻ thù. Về văn học, tác phẩm nổi bật nhất của ông là “Phú sông Bạch Đằng”.
Bài phú này được cho là viết vào khoảng năm 1341-1269 (thời Trần Dụ Tông). Trương Hán Siêu muốn thể hiện lòng tự hào dân tộc và truyền tải những giá trị lịch sử đúng đắn. Thông qua nhân vật khách, ông muốn chia sẻ suy nghĩ và cảm xúc về lịch sử. Bài phú diễn đạt qua các phần trò chuyện giữa chủ và khách, tạo nên cái nhìn toàn diện về chủ đề.
“Khách có kè:
Giương buồm giăng gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.”
Nhân vật khách được tạo hình như một tráng trí tự do, yêu thích du ngoạn và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Hành trình chơi vơi trên sóng nước không chỉ để thưởng thức mà còn để học hỏi và bồi dưỡng tri thức. Khách mang trong mình khát vọng trải nghiệm và hiểu biết rộng lớn, điều này cũng là tâm hồn của Trương Hán Siêu.
Hai loại địa danh, một là trong sách vở, trí tưởng tượng như Cửu Giang, Nguyên Tương, Vũ Huyệt... và hai là thực tế như Đông Triều Bạch Đằng, Đại Thần... Nhân vật khách, học theo Tư Mã Thiên, coi các cuộc du ngoạn là để mở rộng kiến thức cho bản thân và lịch sử dân tộc. Khách không chỉ tham quan cảnh đẹp mà còn tìm đến những địa điểm lịch sử để trải nghiệm và hiểu sâu hơn về lịch sử trong một không gian thực tế. Điều này là minh chứng cho tình yêu thiên nhiên và đam mê du ngoạn của khách.
Sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp mênh mông và bát ngát. Sóng biếc nhấp nhô cuồn cuộn vào cuối thu, tạo ra cảnh sắc hùng vĩ và thơ mộng. Con thuyền trên sông vẫy vùng sau những cơn sóng. Tác giả mô tả phong cảnh và tình cảm của mình về sông Bạch Đằng một cách rất tinh tế và sâu sắc.
Nhà thơ nhìn thấy những dấu vết của chiến tranh trong quá khứ, như những người đã hy sinh. Tác giả dùng từ ngữ biến ngôi đẹp và mạch lạc, gợi lên cảm xúc sâu lắng về lịch sử và tình yêu quê hương.
Bài phú kết thúc bằng lời nhận xét của khách về sông Bạch Đằng và về quốc gia và con người Đại Việt. Tác giả khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ đất nước và giữ gìn đạo đức cao quý.
Bằng nhân vật khách, tác giả thể hiện sự tự hào về dân tộc và gửi gắm nhiều quan niệm nhân sinh và triết lí tích cực. Tác phẩm được coi là tinh hoa của văn học trung đại Việt Nam, mang lại những bài học giá trị về cuộc sống.
Phân tích nhân vật Khách - Mẫu 9
Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tiền bối của chúng ta đã ghi lại trên sách vở những trận chiến thuỷ thành công trên dòng sông, cửa biển, và trong số đó, Bạch Đằng là tượng trưng nổi bật nhất, vĩ đại nhất. Bài thơ ca tụng con sông huyền thoại này đã được nhiều nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Sưởng và Trương Hán Siêu tạo ra. Trong tác phẩm, hình tượng nhân vật khách được đặc biệt nhấn mạnh.
Nhà thơ Trinh Đường đã viết: “Bạch Đằng, biểu tượng vĩ nhân của dân tộc Việt Nam” để tôn vinh những trận chiến hào hùng trên dòng sông này, làm vang lên tiếng vang vĩ đại qua hàng nghìn năm. Từ năm 938, khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, cho đến năm 1288, khi vua Trần đánh tan quân Mông – Nguyên, Bạch Đằng đã chứng kiến nhiều chiến công lịch sử. Bài phú của Trương Hán Siêu, có lẽ được viết sau chiến thắng quan trọng đó, vẫn toả sáng qua thời gian. Hình tượng nhân vật khách và nhân vật bô lão nổi bật trong tác phẩm này.
Trong tác phẩm, nhân vật khách đóng vai trò quan trọng, đưa ra cảm xúc và quan điểm của bài phú, trong khi nhân vật bô lão dẫn chuyện. Sự hiện diện tài tình của tác giả thông qua nhân vật khách là một phần quan trọng giúp tạo nên sự thành công của tác phẩm. Bắt đầu với hình ảnh của nhân vật khách, một tâm hồn yêu thiên nhiên và trí tuệ sâu rộng:
Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Lời giới thiệu đã phác họa một tâm hồn lãng mạn của nhân vật khách. Là một người thích khám phá, khám phá nhiều địa danh nổi tiếng như sông Nguyên, sông Tương, đầm Vân Mộng,… qua sách vở nhưng vẫn chưa thấy đủ với “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Điều này chỉ ra sự uyên thâm trong kiến thức, lòng ham hiểu biết của nhân vật. Trương Hán Siêu, giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Cao Bá Quát, đi du ngoạn thiên nhiên để tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử và trau dồi học thức.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
hay
Phía bắc núi Bắc, núi muôn lớp
Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt,…
Không bày tỏ đạo lý cao cả như Trạng Trình, không bộc lộ sự chua xót như Cao Tử, tác giả đến với thiên nhiên với lòng mong muốn hiểu biết sâu sắc hơn về phong cảnh đất nước, với niềm tự hào về chiến công của cha ông. Trên hành trình, sông Bạch Đằng, một địa danh thực tế, hiện lên trước mắt nhân vật trữ tình:
Qua cửa Đại Thanh, chạy dọc bến Đông Triều.
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Đứng trước những di tích lịch sử, tâm trạng của nhân vật trữ tình biến đổi từ tự hào, vui vẻ đến buồn bã.
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thảnh thơi đuôi trĩ, một màu.
Nước trời: một màu,
Phong cảnh: ba mùa.
Bạch Đằng đang ở vào tháng thứ ba của mùa thu, rải đẫm sắc xanh của nước và trời. Ngắm nhìn con sông hùng vĩ, thơ mộng, tác giả không khỏi tán dương, phấn khích và tự hào về việc được sống trong cảnh bình yên. Nhưng sự hùng vĩ của thế giới hiện tại đối lập với sự bi thảm của bãi chiến trường trong quá khứ. “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.” Những từ ngữ này gợi lên hình ảnh của con sông Bạch Đằng với vẻ buồn bã, sức mạnh ăn mòn của thời gian làm phai mờ dấu vết vĩ đại một thời. Không chỉ buồn, nhân vật trữ tình còn tràn đầy sự chua xót và thương tiếc cho những hậu quả kinh hoàng mà chiến tranh để lại trên dòng sông lịch sử: “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Con sông Bạch Đằng đã chôn vùi bao xương máu, cuốn trôi bao sinh mạng của những nạn nhân trong các cuộc chiến tranh không nhân đạo. Tác giả chỉ có thể thốt lên:
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng im lặng giây phút dài
Thương nhớ những anh hùng đâu vắng bóng
Tiếc nuối dấu vết đang phai nhạt.
Tâm trạng của Thăng Phủ lúc ấy cũng tương tự như tâm trạng của những thi sĩ đã từng đặt chân đến đây. Nguyễn Trãi đã than thở: Việc trước quay đầu thấy trống rỗng, Đến dòng sông ngắm cảnh, lòng đầy bâng khuâng. Sau khi nghe những câu chuyện chân thực và sống động từ các bô lão về hai trận đánh trên sông Bạch Đằng, nhân vật khách thốt lên:
Anh minh hai vị thánh quân
Sông này đã rửa sạch mấy lần lũ giặc
Kẻ thù tan biến muôn đời thịnh bình
Vì đất nước này, phẩm chất cao cả.
Lời kết của bài phú đã nêu lên sự quan trọng về vai trò và tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến. Khác với quan điểm của Nguyễn Sưởng trong Bạch Đằng giang:
Sự nghiệp Trùng Hưng ai mà không hiểu
Nửa đất nước và nửa lửa cháy đều là do con người.
Trương Hán Siêu khẳng định yếu tố quyết định chiến thắng của quân ta trên sông Bạch Đằng là nhờ vào mưu lược, trí tuệ của hai vị vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và lòng dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp lớn của những tướng sĩ, đặc biệt là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Khi giặc tới, vua hỏi Trần Hưng Đạo nên làm thế nào, ông trả lời “Năm nay kẻ thù rất thong thả”. Từ “thong thả” ấy là kết quả của việc rút ra kinh nghiệm từ hai cuộc kháng chiến trước, là sự đoàn kết mạnh mẽ của toàn dân tộc, là khả năng chịu đựng của dân tộc.
Nhận thấy, người đứng đầu một quốc gia không chỉ sử dụng trí tuệ để triển khai chiến thuật quân sự trên chiến trường mà còn dùng chữ “đức” để cai trị dân chúng: “Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”. Tính đức cao quý của vị vua không chỉ thể hiện ở hoàng cung mà còn phản ánh trên chiến trường, như Quốc tồ đã viết: Vô vi nơi hoàng cung Xứ xứ tức thì đao binh. Suốt bài phú, khi tạo dựng hình tượng nhân vật khách, Trương Hán Siêu sử dụng nhiều kỹ thuật nghệ thuật. Trong phần giới thiệu đầu bài, tác giả kết hợp việc liệt kê với phong cách mơ hồ khi nhắc đến những địa danh mà nhân vật trữ tình “đi” qua trong tưởng tượng:
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt
Nơi có ai đi mà không biết.
Tiếp theo, khi miêu tả con sông huyền thoại trong quá khứ và hiện tại, ông sử dụng cả kỹ thuật miêu tả thực tế và phép nói phóng đại cùng với việc sử dụng các từ ngữ hình ảnh như “bát ngát”, “thướt tha”, “san sát”, “đìu hiu”, qua từng câu từ của Thăng Phủ, Bạch Đằng hiện lên vẻ kiêu hùng, bi tráng. Ngoài ra, ông cũng đóng góp vào thành công của Bạch Đằng giang phú bằng cách truyền đạt cảm xúc theo từng khung cảnh, giọng điệu của nhân vật khách thay đổi từ vui vẻ, hưng phấn, tự hào đến u buồn, bi thương và tiếc nuối. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các câu văn linh hoạt và cách ngắt nhịp bằng từ “chừ” – từ đệm đặc trưng của thể phú giúp lời nói mềm mại hơn, mượt mà hơn.
Qua hình tượng nhân vật khách trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu tiết lộ một số đặc điểm về bản thân: lòng ham học hỏi, tráng chí bốn phương, tình yêu sâu sắc với thiên nhiên. Ngoài ra, tác giả thể hiện tâm trạng của mình, cũng như của nhiều người dân Việt trước những chiến công vĩ đại, oanh liệt trên con sông Bạch Đằng. Đó là niềm tự hào về tổ tiên, về dân tộc, là tình yêu nước và quê hương mãnh liệt, là sự thương xót và tiếc nuối về chiến tranh khốc liệt. Không chỉ vậy, tác giả còn khẳng định vai trò của con người trong cuộc chiến, ca ngợi tài đức của những vị thánh quân.
Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 10
Sông Bạch Đằng đã trở thành một điểm đến quen thuộc, là minh chứng lịch sử đã ghi chép nhiều kỷ nguyên lấp lánh trong sử sách vẻ vang của dân tộc, và chính vì thế đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn và nhà thơ, tạo nên những tác phẩm đáng chú ý. Một số tác phẩm nổi bật như Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông, Bạch Đằng giang phú của Nguyễn Mộng Tuân hoặc Bạch Đằng giang của Nguyễn Xưởng,... Trong đó, không thể không nhắc đến một tác phẩm thuộc thể loại phú rất nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam, đó là bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu. Phần đầu của tác phẩm đã khởi đầu cho cả tác phẩm phú với hình ảnh và tâm trạng của nhân vật 'khách' qua mối quan hệ 'chủ-khách'.
Trương Hán Siêu (?-1354), xuất thân từ huyện Yên Ninh, nay thuộc thành phố Ninh Bình, ông là một nhà văn và nhà chính trị kiệt xuất thời Trần. Ông là môn khách của Trần Hưng Đạo và luôn đảm nhận những vai trò quan trọng trong suốt 4 triều đại vua Trần. Ông cũng có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2 và lần 3. Về văn chương, ông để lại 17 bài thơ và hai tác phẩm văn xuôi, trong đó bài Phú sông Bạch Đằng được coi là kiệt tác. Trương Hán Siêu được các vua Trần tôn trọng, gọi ông là thầy chứ không gọi tên thường, và khi qua đời, ông được truy phong là Thái bảo, Thái phó thờ ở Văn miếu Quốc tử giám.
Bài Phú sông Bạch Đằng được coi là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu, là biểu tượng của văn học yêu nước thời Lý - Trần, là đỉnh cao nghệ thuật của thể loại phú trung đại, được coi là tác phẩm kinh điển trong lịch sử văn học Việt Nam. Ngày sáng tác của bài phú không được xác định rõ, nhưng theo một số nghiên cứu, nó được viết sau chiến thắng của quân Trần trước quân Mông Nguyên lần thứ hai khoảng 50 năm, khi nhà Trần bắt đầu thể hiện dấu hiệu suy yếu.
Trong bài, hình ảnh nhân vật 'khách' xuất hiện với những chuyến du ngoạn trên cả hai loại địa danh: đầu tiên là các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc như: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây là những danh lam thắng cảnh tại Trung Quốc, và khi đến đây, tác giả đã du ngoạn qua sách vở và thông qua trí tưởng tượng của mình. Thứ hai, tác giả du ngoạn thực tế trên các địa danh của Việt Nam như: Cửa Đại Thanh, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, tất cả đều là những địa danh lịch sử quan trọng, hiển hiện một cách rõ ràng trong lịch sử. Chúng hiện ra trước mắt Trương Hán Siêu với hai đặc điểm lớn: sự hùng vĩ thơ mộng 'Bát ngát sóng kình muôn dặm', khi con sóng của sông Bạch Đằng mênh mông mỗi khi nhìn thấy, và từ 'bát ngát' gợi lên bức tranh rộng lớn, hùng vĩ của khung cảnh sông nước.
'Thướt tha đuôi trĩ một màu', tạo ra hình ảnh những chiếc thuyền xếp hàng qua lại trên sông, rất mềm mại, dễ thương và dịu dàng, gợi lên vẻ thơ mộng của sông Bạch Đằng, một dòng sông đã rất hùng vĩ và mênh mông. Ngoài ra, nhân vật 'khách' còn cảm nhận được cái đìu hiu, lạnh lùng hiện hữu trong hình ảnh 'Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu', không một bóng người. Thêm câu 'Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô', khung cảnh trở nên thêm sâu sắc, buồn bã, đầy những kỷ niệm.
Qua những cuộc du ngoạn, ta thấy rõ nhân vật 'khách' là người tráng chí bốn phương, đầy tâm hồn thơ mộng, yêu thích du ngoạn, mở rộng tầm hiểu biết, với một tinh thần tự do và sự say mê, tự do, 'tiêu dao' thảnh thơi đi khắp nơi, không bị gò bó bởi bất kỳ điều gì ngoài cơ thể. Khách khi du ngoạn có nhiều mục đích, trước hết là thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, sau đó là tìm hiểu về văn hóa địa phương để mở rộng kiến thức cho bản thân, một phong cách mà Khách học hỏi từ nhà sử gia nổi tiếng Tư Mã Thiên của Trung Quốc. Có thể thấy rằng hình ảnh 'khách' mà tác giả gợi lên ở đầu bài chính là một phần của tác giả, trong hình dáng của khách ta thấy hình ảnh của Trương Hán Siêu.
Khi đứng trước các địa danh của đất nước, nhân vật 'khách' trải qua nhiều cảm xúc. Trước hết là niềm vui khi ngắm nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng thời cũng là niềm tự hào không giấu diếm trước dòng sông ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Ngoài ra, tác giả cũng thể hiện trực tiếp những nỗi buồn, nuối tiếc khi nhìn thấy chiến trường xưa oanh liệt, nay chỉ còn lại hoang tàn và lạnh lẽo, nơi anh hùng ngày xưa đã khuất phục, chỉ còn những dấu vết sắp mất đi.
'Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu'
Khách 'đứng lặng giờ lâu', không thể giấu diếm sự đau buồn, mất mát, cô đơn, tâm trạng của Khách thay đổi từ hướng ngoại, phấn khích, sôi động vì vẻ đẹp hiện tại đã chuyển sang hướng nội, buồn rầu và nuối tiếc trước dòng chảy lạnh lẽo của thời gian, lịch sử, đã phủ lên cảnh cũ của người xưa. Ngày nay, chiến trường một thời oanh liệt, nay chỉ còn lại bờ lau, bến lách chỉ còn sông chìm, giáo gãy chỉ còn 'gò đầy xương khô', những anh hùng một thuở lưu danh trong sử sách những ngày hôm nay 'đâu vắng tá' đều đã trở thành người thiên cổ. Đó cũng là những nỗi lo sâu sắc, của một chí sĩ yêu nước trước thực trạng của đất nước vào những năm cuối thời Trần.
Nhân vật 'khách' cũng là hình ảnh của Trương Hán Siêu, trước tình hình đất nước đang trên đà suy thoái, khi trở lại ngắm nhìn sông Bạch Đằng, bỗng dưng nảy sinh nhiều cảm xúc, phần lớn đều bắt nguồn từ tình yêu nước và lòng thương dân, lo lắng cho tương lai của dân tộc của một nhà quan lão 4 triều. Bên ngoài là cái vẻ thảnh thơi thưởng ngoạn vẻ đẹp hùng vĩ của Đại Việt ta, nhưng trong lòng là những nỗi buồn nhớ, tiếc thương những ngày đất nước yên bình thịnh vượng, quân đội mạnh mẽ, viết nên những trang sử hào hùng. Nhưng bây giờ mọi thứ đã khác, khiến tác giả không thể không cảm thấy mơ màng, đứng lặng trước cảnh tượng, và như vậy dòng cảm xúc của nhân vật 'khách' đã làm nền cho những phần sau của bài phú.
Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 11
Tác phẩm Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào của dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời tôn vinh truyền thống anh hùng bất khuất, đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm, nhân vật khách đóng vai trò quan trọng.
Nhân vật “khách” là tác giả tự nhận danh xưng, tạo ra sự tương tác 'chủ - khách' thường gặp trong thể phú. Trong bài viết, nhân vật khách tham gia các cuộc du ngoạn. Đầu tiên là du ngoạn qua các địa danh nổi tiếng trong các tác phẩm Trung Quốc cổ: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây là những danh lam thắng cảnh lớn ở Trung Quốc. Tiếp theo là các địa danh của Việt Nam: Cửa Đại Thanh, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng. Đây đều là những địa danh đẹp và có ý nghĩa lịch sử. Thiên nhiên hiện lên trước mắt nhân vật khách phong phú và rộng lớn. Như vậy, hình ảnh “khách” mà tác giả gợi lên ở đầu bài là một phần của tác giả, trong hình dạng của khách ta nhìn thấy bản thân của nhà văn.
Trong đoạn tiếp theo, khi đứng trước vẻ đẹp thiên nhiên của sông Bạch Đằng, nhân vật khách tỏ ra vui mừng trước cảnh quan hùng vĩ vừa thơ mộng. Đồng thời, đó cũng là dịp để tự hào trước dòng sông đã ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Không chỉ thế, nhân vật khách cũng thể hiện trực tiếp nỗi buồn, nuối tiếc trước những di tích chiến trường xưa nay chỉ còn lại với nỗi hoang vắng và cô đơn, anh hùng ngày nay đã khuất, chỉ còn lại những dấu vết đang phai mờ. Khách đứng trước sông Bạch Đằng một thời gian dài, không giấu được sự hụt hẫng, cô đơn. Tâm trạng của khách lúc này đã thay đổi từ hướng ngoại và phấn khích sang hướng nội và buồn bã, nuối tiếc trước dòng chảy lạnh lùng của thời gian, lịch sử:
Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bên sông bô lão hỏi, hỏi ý ta sở cầu?
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.
Trận chiến quyết liệt ngày xưa, nay chỉ còn bờ lau, bến lách, sông chìm, giáo gã. Các anh hùng từng hiện hữu trong trang sách lịch sử cũng chỉ còn là những huyền thoại từ xa xưa. Điều này khiến nhà thơ truyền tải nỗi lo lắng của một người chí sĩ yêu nước trước tình hình khó khăn của đất nước vào những thời cuối cùng của triều đại Trần.
Cuối cùng, hình tượng của “khách” lại xuất hiện trong phần kết của tác phẩm, thông qua việc ca tụng và đồng thanh với lời ca ngợi của các bô lão. Nhân vật khách đã thể hiện một cách cụ thể triết lý của các bô lão đã được đề cập trước đó.
Những kẻ bất trung sẽ tiêu vong
Chỉ có anh hùng lưu danh qua muôn đời
Hai vị anh hùng được nhắc đến đó là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, danh tiếng của họ sẽ mãi mãi được ghi nhận và truyền tụng qua thời gian. Nhân vật khách đã tôn vinh sông Bạch Đằng - biểu tượng của những chiến công anh hùng trong lịch sử của dân tộc.
Hình tượng của nhân vật khách trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng cũng đồng thời là biểu tượng của Trương Hán Siêu. Những tâm tư được nhân vật khách truyền đạt cũng là tiếng lòng của chính nhà thơ. Phú sông Bạch Đằng thực sự là một tác phẩm vĩ đại chứa đựng những giá trị cao quý.