Phân tích Thề Nguyền với 7 mẫu văn cực kỳ hữu ích kèm theo hướng dẫn cụ thể. Điều này giúp các bạn học sinh có thể tham khảo để nâng cao kỹ năng văn học với các mẫu văn sát với chương trình học của mình.
Thề Nguyền của Nguyễn Du đã tạo dựng một bức tranh đêm trăng lãng mạn, thể hiện lòng mong mỏi tự do tình yêu của Thúy Kiều. Tình yêu của họ là tình yêu thuần khiết, trung thành, vượt lên trên các ràng buộc của xã hội. Dưới đây là 7 ví dụ phân tích Thề Nguyền xuất sắc nhất mà bạn không nên bỏ qua.
Dàn ý phân tích bài thơ Thề Nguyền
I. Khai mạc:
- Giới thiệu đoạn trích Thề Nguyền.
- Ví dụ: Nguyễn Du là một thi sĩ vĩ đại của dân tộc, ông đã sáng tác những bài thơ thể hiện sự khổ đau và sâu lắng của con người, đặc biệt là của phụ nữ. Tâm hồn nhân ái của ông được thể hiện rất rõ qua các tác phẩm, đặc biệt là trong Truyện Kiều. Tác phẩm này kể về một người phụ nữ tài năng và xinh đẹp nhưng đã hy sinh mình vì lòng hiếu thảo. Một đoạn trích trong tác phẩm thể hiện mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng rất sâu lắng. Hãy cùng khám phá đoạn trích đó.
II. Thân bài:
1. Kiều băng qua đường đến nhà Kim Trọng
- Tâm trạng và cảm xúc của Kiều:
+ Kiều hào hứng, mong đợi được gặp Trọng.
+ Tình yêu của Kiều dành cho Trọng rất mãnh liệt.
+ Kiều lo lắng về tình yêu của mình nhưng vẫn kiên định và dũng cảm.
+ Kiều có một tình yêu đầu đời tuyệt vời.
+ Kiều mong mỏi được tự do trong tình yêu.
- Tâm trạng và thái độ của Kim Trọng:
+ Kim Trọng chu đáo, cẩn thận khi đón Kiều vào nhà.
+ Kim Trọng cũng hết mình yêu Kiều.
2. Kiều và Kim Trọng thề nguyền
- Thể hiện nghi lễ thề nguyền trang trọng và linh thiêng dưới ánh trăng, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa.
- Sự đồng lòng, đồng ý của hai người với tình yêu của họ.
- Tạo niềm tin vào tình yêu.
- Tình yêu sâu đậm của Thúy Kiều và Kim Trọng.
III. Kết thúc:
- Đánh giá về đoạn trích Thề Nguyền.
- Ví dụ: Qua đoạn trích, ta cảm nhận được tình yêu đẹp và say đắm của Thúy Kiều và Kim Trọng, một tình yêu trân trọng và thiêng liêng đã được cả trời đất chứng kiến qua hành động thề nguyền.
Dưới đây là hướng dẫn lập dàn ý đề bài “Phân tích đoạn trích Thề Nguyền” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn. Hy vọng qua bài lập dàn ý này, bạn sẽ có những sự tham khảo để viết văn tốt hơn. Chúc các bạn thành công và học tốt.
Phân tích đoạn trích Thề Nguyền - Mẫu 1
Trong văn học cổ điển, việc tôn vinh tình yêu đôi lứa không phải là điều thường thấy. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, tình yêu không chỉ được viết về mà còn được ca ngợi về tình yêu tự do của đôi lứa. Ông đã thể hiện ý tưởng này một cách chân thực qua đoạn trích Thề Nguyền.
Thề nguyền là hành động hứa hẹn về tình cảm của đôi lứa, có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng, thể hiện tình yêu và cảm xúc tận cùng của tình yêu. Thúy Kiều và Kim Trọng đã thề nguyền dưới ánh trăng để khẳng định tình yêu của mình, vượt qua mọi rào cản của xã hội, là tình yêu vượt lên trên mọi định kiến thời đại.
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Hành động “xăm xăm băng lối vườn khuya” của Thúy Kiều thật táo bạo. Mặc dù không được xã hội phong kiến chấp nhận, hành động này thể hiện sức mạnh của tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, thậm chí cả định kiến xã hội. Thúy Kiều sống thực với cảm xúc và mong muốn của mình, không quá xa giới hạn và có lý do cho hành động của mình:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
“Vì hoa” ở đây là Kim Trọng, người đã khiến Thúy Kiều yêu say đắm từ lần gặp đầu tiên. Thúy Kiều luôn lo lắng về một tương lai đầy biến cố và đau khổ. Hành động vội vã của Kiều thể hiện sự trăn trở của cô, muốn bắt kịp mọi khoảnh khắc hạnh phúc bên người mình yêu. Kim Trọng bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của Thúy Kiều:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân của Thúy Kiều đánh thức giấc mộng của Kim Trọng, làm cho chàng tưởng như đã gặp tiên nữ ở núi Vu Giáp. Khung cảnh đêm khuya cùng sự xuất hiện bất ngờ của Kiều khiến Kim Trọng không biết liệu đây là cơn mộng mị hay thực tế. Khi yêu, người ta thường nhìn cuộc sống qua con mắt mơ mộng, hình ảnh của người yêu trong lòng xuất hiện xinh đẹp, lộng lẫy ngay trước mắt, khiến chàng như đang mơ mộng. Khi xác định được Kiều đứng trước mặt là thật, Kim Trọng rất vui mừng, hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Khung cảnh của đêm thề nguyền được Nguyễn Du mô tả sinh động, ấn tượng với đầy đủ ánh sáng, màu sắc và hương thơm. Buổi thề nguyền diễn ra với nghi thức đầy đủ: tuyên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề nguyền. Trong buổi thề nguyền đó, Kiều trao cho Kim Trọng tóc mây, thể hiện tình cảm sâu sắc của mình:
Trong đêm thề nguyền này, trăng là chứng nhân cho tình yêu của hai người, đồng thời cũng là người cố tri, chứng kiến mọi bước ngoặt trong cuộc đời của Kiều. Đó có thể là hình ảnh ánh trăng le lói trong đêm khi Kiều bỏ trốn theo Sở Khanh:
Đêm khuya dài lê thê canh tàn
Gió mùa gửi lá, trăng rải sương mờ.
Trăng như mất mát, đau buồn khi bị chia nửa trong đêm Thúy Kiều ly biệt Thúc Sinh:
Trăng ai xẻ làm đôi
Một nửa soi gối, một nửa chiếu xa xăm.
Ánh trăng đã làm chứng cho mọi biến cố trong cuộc đời Thúy Kiều, từ niềm vui hạnh phúc khi thề nguyền cùng Kim Trọng đến nỗi đau khổ sau này. Đoạn trích thể hiện tình yêu sâu nặng của Kiều dành cho Trọng, là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong cuộc đời của nàng.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 2
Trong cuộc đời này, ai dám khẳng định rằng: sống không cần tình yêu? Một lời của đại thi hào Nga M.Gorki đã nói rõ: Tình yêu là thơ ca của cuộc sống. Sống thiếu tình yêu không phải là sống, chỉ là tồn tại! Và tình yêu, như một định mệnh, tìm đến văn chương nghệ thuật để tồn tại mãi mãi. Câu chuyện về tình yêu này, từ ngày xưa đến nay, luôn giữ vị trí cao trong lòng người đọc. Ai có thể lạnh nhạt trước tình yêu trong sáng của Romeo và Juliet dưới ánh trăng thề nguyền? Cũng như vậy, ai có thể không nhận ra một phần của lòng mình trong tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng? Thề nguyền là biểu hiện tuyệt vời của tình yêu dành cho quốc sắc, cho thiên tài này.
Thề nguyền là một biểu hiện cao quý của tình yêu. Lời thề là sự khẳng định niềm tin, lòng trung thành vững vàng của hai người, là nền móng vững chắc, kiên định cho tình yêu. Không ngạc nhiên khi cả Romeo và Juliet, Thúy Kiều và Kim Trọng đều coi thề nguyền là minh chứng cho tình yêu của họ trong văn học trung đại Việt Nam, khi mà một tình yêu như của Kim - Kiều là hiếm thấy. Tình yêu ấy đã vượt qua mọi rào cản, gỡ bỏ mọi trở ngại để tự do, tự nguyện đến với nhau. Một tình yêu vượt thời gian. Để bảo vệ, chăm sóc cho tình yêu đẹp đẽ của mình, Thúy Kiều đã:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy đã khiến Kiều phải chịu đựng không biết bao nhiêu lời khen - chê. Theo quan điểm cổ xưa, đó là hành động vi phạm đạo đức, đạo lý, luân lý. Trong khi Kiều thường phải ẩn mình trong cảnh thâm nghiệm của nhà cao tường hay êm đềm của quan hệ với màn che - một bức tường đông ong bướm, thì hành động một mình đêm tối tìm đến nhà người yêu là điều khó chấp nhận, không phù hợp với vai trò tiểu thư quý phái.
Nhưng hãy nhìn nhận nó qua con mắt và tâm hồn của người đang yêu, những điều mà người ta coi là vô lý, sai trái, không thể chấp nhận, bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn hơn bao giờ hết. Kiều yêu bằng trái tim ngây thơ, mãnh liệt nhất của một cô gái. Tình yêu đẹp đã mang lại sức mạnh cho nàng vượt qua bóng đêm của khu vườn, bóng đêm của định kiến để đến với Kim. Đáng quý hơn, là Kiều không để tình yêu dẫn dắt nàng đi quá xa, vượt quá giới hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.
Nàng nói: Đêm trường trống trải
Vì tình yêu nên ta phải đi tìm tình yêu
Bây giờ hai ta cảm thấy ngượng ngùng
Không biết liệu mọi thứ sau này có phải chỉ là ảo mộng?
Vì tình yêu – vì Kim – vì người văn nhân như trời nết đất, phong nhã thông minh, hào hoa ngoại hình, đã khiến Kiều phải đi tìm tình yêu giữa đêm trường vắng vẻ. Ai nên trách nếu không phải Kiều?
Mặc dù yêu say đắm, Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời bắt đầu với nỗi lo lắng. Tiên đoán của Đạm Tiên rằng nàng sẽ chết trẻ đã khiến cô gái trong sáng này luôn mang nỗi lo sợ. Trong niềm hạnh phúc, Kiều vẫn nghi ngờ: Liệu mọi thứ có phải chỉ là giấc mơ? Hạnh phúc mong manh liệu có thể tồn tại mãi mãi? Điều đó không chỉ là lo lắng đơn thuần nữa. Đó có thể là một điềm báo? Tương tự như lời thổ lộ của Juliet dưới trăng đã khiến Romeo ngây ngất, hành động của Kiều khiến Kim Trọng bất ngờ và hạnh phúc:
Nàng như hoa lê ngậm trăng, thanh khiết, tươi sáng khiến Kim ngỡ như gặp tiên nữ núi Vu Giáp.
Chàng không khỏi ngạc nhiên: Liệu mọi thứ sau này có phải chỉ là giấc mơ?
Bước chân của người đẹp đã đánh thức giấc mộng của Kim. Nàng như hoa lê ngậm trăng, thanh khiết, sáng láng khiến Kim ngỡ như gặp tiên nữ núi Vu Giáp. Chàng không khỏi ngạc nhiên: Liệu mọi thứ sau này có phải chỉ là giấc mơ?
Lại là giấc mơ. Trong tình yêu, con người thường nhìn thế giới bằng ánh mắt mơ mộng. Kiều bất ngờ xuất hiện trước mặt chàng, với vẻ đẹp dễ thương, khiến chàng cảm thấy như đang đắm chìm trong giấc mơ màng của một đêm xuân. Hết ngạc nhiên, chàng hạnh phúc mừng rỡ:
Vội vàng tổ chức lễ rước vào
Đài sen kết nối hương thơm của sáp lò và đào
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây trở thành một món quà quý giá được chia đôi bởi một chiếc dao vàng
Vầng trăng vẫn lung linh trên bầu trời
Đôi ta đinh ninh, hai miệng chung một lời hứa.
Không khí của đêm thề nguyền được tạo ra với đầy đủ ấn tượng, từ ánh sáng, màu sắc, đến hương thơm; từ cảnh đẹp đến người đẹp... tất cả đã in sâu dấu ấn của tình yêu đầu đời trong lòng Kiều. Buổi thề nguyền được kỷ niệm bằng tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao cho Kim một sợi tóc mây biểu thị sự cam kết. Đêm thề nguyền của họ được diễn ra trong bầu không khí êm đềm của thiên nhiên, với sự chứng kiến của vầng trăng lung linh giữa bầu trời.
Trăng là nhân chứng, luôn hiện diện để chứng kiến mọi biến cố trong cuộc đời của Kiều, vầng trăng đó chứa đựng nhiều cảm xúc vì dưới ánh trăng là những tâm tư không nguôi của con người. Đôi khi, nó chỉ là một chút ánh sáng nhạt nhòa, đe dọa trong đêm mà Kiều trốn chạy theo Sở Khanh:
Đêm tối dần kết thúc, canh lâu được khắc sâu vào bộ não
Âm thanh của cây rụt lá kết hợp với ánh trăng phản chiếu ánh sáng sương mù.
Hoặc có thể là khi vầng trăng chia nửa, khi Kiều chia tay Thúc:
Vầng trăng ai chia thành hai phần
Một nửa soi ánh trăng dẫu xa vời, nửa khác ám bóng gối dù gần kề.
Hoặc là khi bóng trăng tà đầy hoảng sợ, khi Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư:
Leo qua hàng rào hoa mọc
Đi theo bóng trăng tà trở về phía tây…
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng lên trên bầu trời như một lời chứng nhận của tự nhiên trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như một lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những vết thương, bụi bặm của cuộc sống; nó ghi khắc hình ảnh đêm thề nguyền sâu vào cuộc sống của hai người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh cửu.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 3
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam, đã ảnh hưởng sâu rộng trong hàng trăm năm qua. Giá trị của tác phẩm đến từ lòng nhân văn, lòng thương cảm và xót xa với số phận con người dưới thời phong kiến, cũng như ca ngợi vẻ đẹp tài năng và tâm hồn của người phụ nữ. Thúy Kiều là nhân vật chính, một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải chịu bất hạnh. Trong phần Gặp gỡ, trích đoạn Thề nguyền là một trong những đoạn hay nhất, nói về tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng.
Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452, Kim Trọng và Thúy Kiều đã phải lòng nhau, và tình yêu của họ trở nên sâu đậm. Thúy Kiều lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi quay lại lần nữa để tỏ tình và ước chung thân. Đoạn Thề nguyền kể lại việc đính ước của họ dưới ánh trăng.
Trong đoạn Thề nguyền, ta thấy quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du về tình yêu, ủng hộ nam nữ tự do theo đuổi tình yêu mà không bị ràng buộc bởi quy định xã hội. Điều này thể hiện rõ trong việc Thúy Kiều vượt tường đến gặp Kim Trọng trong đêm tối.
“Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương dọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Trong 14 câu thơ đầu, thấy hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang, khi về nhà vẫn chưa về, Kiều nảy ra ý định sang tìm Kim Trọng lần nữa. Tình yêu của nàng mạnh mẽ, sâu sắc, được thể hiện qua hành động và từ ngữ mạnh mẽ. Khung cảnh thiên nhiên thơ mộng làm nổi bật tình yêu đầu đời của họ. Hình ảnh ánh trăng và đèn sách thể hiện tình yêu chân thành và sự chờ đợi của cả hai.
“Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Không gian thề nguyền của đôi trẻ là nhà Kim Trọng, là nơi họ thường gặp nhau, tâm sự, trong một đêm trăng sáng tạo nên không gian trữ tình thơ mộng. Ánh trăng luôn là biểu tượng cho sự hạnh phúc, tình yêu trong sáng của Thúy Kiều và Kim Trọng. Trong việc thề nguyền, cả hai đều rất thành tâm và tỉ mỉ, từ việc thắp nến đỏ trên 'đài sen', cho đến việc cắt tóc mây bằng 'dao vàng', thể hiện sự trân trọng và nâng niu ước nguyện chung. 'Đinh ninh hai miệng một lời song song' là biểu hiện của tình yêu chân thành, sâu sắc đến từ cả hai phía. Lời ước hẹn 'Trăm năm tạc một chữ đồng đến tâm' chứng minh sự thủy chung và tình cảm sâu nặng của họ.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 4
Sau cuộc du xuân, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, Kim thuê trọ gần nhà Kiều. Một hôm, khi gia đình đi mừng thọ, Thúy Kiều tự đi sang nhà Kim Trọng, họ hứa hẹn chung thủy suốt đời. 'Thề nguyền' là biểu hiện của tình yêu và sự dũng cảm của Thúy Kiều, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại để có được tình yêu với Kim Trọng.
Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về:
“Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết chở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, với những bước chân nhanh nhẹn, can đảm, nàng tới bên nhân tình cùng nhau thảo luận văn thơ, chia sẻ tâm tình. Trái tim của Kiều bồng bột ngây thơ, đầy táo bạo và sự chủ động trong tình yêu, thể hiện qua việc thề nguyền với người yêu mà không cần sự cho phép của cha mẹ. Kim Trọng đón nhận khoảnh khắc này với sự quý trọng không tưởng, sau bao ngày chờ đợi, được nàng giãi bày tâm tình.
“Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng”
Nguyễn Du sử dụng hình ảnh ước lệ 'tiếng sen' để miêu tả bước chân nhẹ nhàng của Kiều khiến Kim Trọng nửa tỉnh nửa mê, luyến tiếc khi nàng quay trở về nhà. Kiều quay lại đột ngột khiến chàng bàng khuâng, như còn mơ màng trong giấc mộng đêm xuân. Nguyễn Du mượn điển tích 'đỉnh Giáp non thần' để thể hiện sự trân trọng của chàng.
Sức mạnh của tình yêu đã thúc đẩy Kiều hành động, nàng sống thực với cảm xúc và mong muốn của mình. Mặc dù hành động táo bạo, nhưng Kiều không vượt quá giới hạn, nàng có lý do cho những hành động này.
Còn với Kim Trọng, khoảnh khắc này quý giá hơn bao giờ hết, sau bao ngày chờ đợi, được nàng giãi bày tâm tình:
“Khoảng trống trong đêm tối
Vì tình yêu nên phải vượt qua khó khăn
Bây giờ hai ta đều đỏ mặt
Liệu điều gì sẽ xảy ra sau này?
“Khoảng trống trong đêm tối” đề cập đến sự cô đơn, khó khăn mà Kiều phải vượt qua để gặp Kim Trọng. “Vì tình yêu” chính là Kim Trọng, người đã làm say đắm trái tim nàng ngay từ lần gặp đầu tiên. Tình yêu đã thúc đẩy nàng vượt qua mọi rào cản để đến gặp và chia sẻ tâm tình cùng Kim Trọng. Kiều luôn lo lắng về tương lai, liệu tình yêu có phải là một giấc mơ thoáng qua hay không. Hành động vội vã của nàng thể hiện khao khát hạnh phúc bên người mình yêu.
Sau khi Kiều giãi bày, Kim Trọng đốt trầm hương, thắp đèn, viết lời thề, cắt tóc và trao đổi vật tin dưới sự chứng giám của vầng trăng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Buổi thề nguyền ngắn gọn, vội vã nhưng đầy đủ nghi thức: thề nguyền, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề nguyền. Thúy Kiều đã trao tóc mây cho Kim Trọng, thể hiện tình cảm sâu sắc. Nguyễn Du đã tạo ra không gian thề nguyền lãng mạn, thơ mộng, với vầng trăng là nhân chứng cho tình yêu son sắt của hai người.
Phân tích về bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 5
Tình yêu trải qua nhiều giai đoạn, đầy cung bậc cảm xúc khác nhau. Khi hai tâm hồn hòa quyện, người yêu nhau thường thề nguyền hẹn ước đời đời, luôn đồng hành, cùng vượt qua khó khăn. Thúy Kiều và Kim Trọng cũng như vậy, họ đã thề nguyền trong không gian thơ mộng. Có lẽ trong văn chương trung đại Việt Nam chưa từng có cuộc thề nguyền nào lãng mạn như vậy.
Mở đầu đoạn trích 'Thề nguyền' là sự táo bạo của Thúy Kiều khi sang nhà Kim Trọng trong lúc cha mẹ và em trai đi mừng thọ:
'Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu'
Khi tim đã rung động vì tình yêu, ước muốn được ở bên người yêu là điều dễ hiểu. Thúy Kiều tỏ ra vội vã, khẩn trương khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Nàng không chùn bước trước sự tĩnh lặng của vườn khuya mà ngược lại, tình yêu nồng cháy trong lòng khiến nàng vượt qua mọi rào cản. Trong xã hội cổ truyền, phụ nữ thường không được tự do trong tình yêu, nhưng Thúy Kiều đã chủ động bước sang nhà Kim Trọng vào buổi chiều tà. Điều này thể hiện sự táo bạo và khao khát hạnh phúc tự do của nàng. Dưới ánh trăng, không gian trở nên huyền ảo. Kim Trọng đang mơ màng dưới ánh đèn lả lướt:
'Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng'
Chàng thư sinh hiếu học ấy đang 'thiu thiu', chập chờn bước vào giấc ngủ và ở trạng thái nửa tỉnh nửa mê không biết tiếng bước chân nhẹ nhàng của người mình yêu đang tiến đến gần là mơ hay thực. Thời gian càng về khuya cũng là lúc người đẹp lại gần Kim Trọng. Các hình ảnh ước lệ như 'giấc hòe', 'hoa lê', 'bóng trăng đã xế', 'giấc mộng đêm xuân' đã góp phần thể hiện tâm trạng 'bâng khuâng' giữa hai bờ hư - thực của Kim Trọng. Tiếng bước chân của Kiều đã làm xao động giấc hòe của chàng thư sinh. Thúy Kiều xuất hiện như thần nữ xinh đẹp của núi Vu Giáp. Vẻ đẹp của bóng trăng và bóng nàng Thúy Kiều như quyện hòa với nhau làm một. Cảnh vật, không gian lãng mạn như thế thật thích hợp cho một cuộc thề nguyền. Chính sự xuất hiện ấy khiến Kim Trọng không khỏi có sự nghi ngờ việc Kiều sang nhà mình là sự thật hay chỉ là giấc mơ.
Mong ước được thề nguyền, sánh đôi và trọn nghĩa thủy chung với Kim Trọng nên Thúy Kiều đã có hành động đầy táo bạo:
'Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?'
Lý do ấy thật chính đáng và thuyết phục. Vì tình yêu mà nàng chủ động 'trổ đường tìm hoa', vì tình yêu chân chính, tự do mà nàng vượt khỏi những quy định của Nho giáo. 'Khoảng vắng đêm trường' không phải thời gian, không gian thực mà là thời gian, không gian tâm lí. Tâm trạng của những người đang yêu luôn ngập tràn nỗi nhớ nhung, vừa mới gặp nhau mà Thúy Kiều đã cảm thấy như xa Kim Trọng một thời gian rất dài. Hơn nữa, Kim Trọng thuê trọ ở gần nhà Thúy Kiều nhưng như thế vẫn còn chưa đủ. Nàng muốn gần chàng Kim hơn nữa để tình yêu lứa đôi thêm phần gắn kết. Trong lĩnh vực văn chương, từ 'hoa' thường để chỉ người con gái tài sắc nhưng trong câu thơ 'Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa' từ 'hoa' ngầm chỉ tình yêu son sắt, tha thiết với chàng Kim. Từ khi gặp mộ nàng Đạm Tiên, Thúy Kiều luôn có dự cảm chẳng lành về cuộc đời của mình và mối tình của mình với Kim Trọng. Dự cảm về sự chia lìa, dang dở luôn thường trực trong tâm trí của người thiếu nữ có vẻ đẹp 'mười phân vẹn mười' ấy. Nhân lúc còn 'rõ mặt đôi ta', Thúy Kiều muốn hẹn ước cùng Kim Trọng bởi nàng lo sợ sau này sẽ không còn cơ hội nữa.
Thấu hiểu mong ước của người mình yêu, Kim Trọng đã 'rước' Kiều vào thư phòng của mình để thực hiện lễ thề nguyền:
'Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương'.
Ánh sáng của 'trướng huỳnh' hiu hắt quá nên Kim Trọng đã lấy thêm nến sáp vào cái đài hình hoa sen để có thêm ánh sáng và chàng cũng thắp thêm hương để lò hương thêm thơm. Khung cảnh ấy vừa gợi sự thiêng liêng lại vừa gợi sự thơ mộng, lãng mạn. Đó cũng là không gian của cuộc thề nguyền diễn ra nhanh chóng, vội vàng nhưng cũng đầy đủ tất cả các lễ nghi cần có:
'Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương'.
Trước tiên, Kim Trọng và Thúy Kiều lấy tờ giấy cùng nhau viết lời thề nguyện, rồi sau đó cắt tóc bằng con dao vàng và chia phần tóc ấy làm hai để đặt lên chiếc bàn dùng để xếp sách thật trang trọng. Vầng trăng sáng 'vằng vặc' giữa trời đêm là nhân chứng cho cuộc thề nguyền ấy. Tình yêu của hai người có vầng trăng chứng giám. Lời thề chung thủy của Thúy Kiều và Kim Trọng là lời hẹn thề sẽ đồng tâm, đồng lòng, đồng cam cộng khổ để cùng nhau xây đắp một hạnh phúc dài lâu, vững bền. Nguyện ước trăm năm sẽ gắn bó bên nhau, lời thề trong đêm trăng sẽ giúp tình yêu của họ thêm gắn kết. Cuộc thề nguyền diễn ra mà không có mẹ cha, bạn bè thân thiết làm chứng mà chỉ có hai người hẹn thề với nhau dưới vầng trăng.
Đoạn trích đã thể hiện quan niệm về tình yêu tự do, tự nguyện của đại thi hào Nguyễn Du. Ông trân trọng mối tình Thúy Kiều - Kim Trọng đồng thời cũng xót thương cho mối tình ấy vì vừa được nhen nhóm đã gặp phải sóng gió, trắc trở. Cũng vì lời thề này mà Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân để Vân thay mình ở bên cạnh Kim Trọng trong tâm trạng đầy đau xót.Lời thề nguyền đã góp phần tạo nên niềm tin tưởng vào tình yêu của hai nhân vật và cũng là của tác giả.Qua đó, bạn đọc thấy được tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều - Kim Trọng và thấy được tài năng ngôn ngữ, cách sử dụng các hình ảnh ước lệ của Nguyễn Du.
Phân tích Thề nguyền - Mẫu 6
Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một “đại kiệt tác” của nền văn học trung đại Việt Nam, Truyện Kiều xoay quanh cuộc đời và số phận của nhân vật Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn “sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Tuy nhiên, cuộc đời của người con gái tài hoa ấy lại phải trải qua muôn vàn khó khăn, bất hạnh, sóng gió của cuộc đời. Cuộc đời Thúy Kiều toàn những khổ đau, bất trắc. Nhưng, nếu ta theo dõi từ đầu cuộc đời của Kiều, ta có thể thấy Kiều đã từng được hạnh phúc. Đó là khi gặp gỡ Kim Trọng, yêu và được yêu, tình yêu đầu đời của nàng Kiều với chàng Kim cũng đẹp như bao chuyện tình khác. Trong trích đoạn “Thề nguyền”, nhà thơ Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét tình yêu trong sáng mà da diết ấy của hai người.
Sau khi có duyên gặp mặt tại lễ tảo mộ, Kim Trọng đã khắc sâu hình bóng của nàng Kiều trong tim của mình. Vì vậy, Kim Trọng đã thuê một nhà trọ gần nhà của Vương ông, mục đích là có thể tiếp tục gặp gỡ Thúy Kiều. Cuộc gặp mặt vô tình tại lễ tảo mộ không chỉ có Kim Trọng mà Thúy Kiều cũng có sự rung động với chàng Kim thư sinh, anh tuấn. Nhân khi cả nhà về ngoại, Thúy Kiều và Kim Trọng đã lén lút gặp nhau. Khi trở về, biết bố mẹ vẫn chưa trở về, nàng Kiều đã có một quyết định rất táo bạo, đó là vượt tường để sang gặp Kim Trọng lần nữa:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Khi biết bố mẹ và hai em chưa có ai về nhà, Thúy Kiều đã 'tận dụng' khoảng thời gian quý giá đó để gặp tình nhân. Hành động của nàng Kiều rất khôn ngoan, nàng mở rèm che để không bị phát hiện khi 'vội rủ rèm che'. Hành động tiếp theo càng thể hiện sự dũng cảm hơn, nàng 'băng băng lối vườn khuya một mình'. Chúng ta có thể thấy, trong triết lý xưa, phụ nữ không được tự do trong tình yêu mà phải tuân theo nguyên tắc 'cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy'. Ở đây Thúy Kiều không chỉ vi phạm nguyên tắc đó mà còn tự mình tiếp cận tình yêu. Hành động 'băng băng' thể hiện sự quyết đoán, nhanh nhẹn. Do đó, Thúy Kiều đã phá vỡ mọi rào cản của xã hội phong kiến đối với tình yêu, thể hiện sự khao khát hạnh phúc chính đáng của mình.
'Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao'
Trong đêm tối, Thúy Kiều vượt qua khoảng cách để gặp Kim Trọng. 'Khoảng vắng đêm trường' là lúc mà những người yêu nhau nhớ nhung về nhau nhất. Với Thúy Kiều cũng vậy, nỗi nhớ về Kim Trọng đã thúc đẩy nàng. 'Vì hoa' ở đây có thể hiểu là Thúy Kiều ám chỉ Kim Trọng, một người tài năng và lịch thiệp. 'Trổ đường tìm hoa' là hành trình của Thúy Kiều để đến với Kim Trọng, nàng sử dụng mọi cơ hội để ở bên nhau, vì 'biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao'. Có lẽ, cuộc gặp mặt với mộ Đạm Tiên luôn ảnh hưởng đến Thúy Kiều, nàng luôn có cảm giác mơ hồ về tương lai đầy biến cố sẽ đến với một người tài năng như Kim Trọng. Vì thế, nàng không muốn bỏ lỡ bất kỳ khoảnh khắc nào để trải nghiệm cảm xúc và tình yêu của mình.
Chàng Kim đang ngủ lơ mơ, nửa tỉnh nửa mê nghe tiếng động 'tiếng sen khẽ động giấc hòe'. Nhà thơ Nguyễn Du sử dụng hình ảnh 'tiếng sen' để mô tả bước chân của Thúy Kiều, gợi lên hình ảnh nhẹ nhàng, uyển chuyển đến mức chỉ 'khẽ động giấc hòe'. Khung cảnh gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng cũng được Nguyễn Du mô tả vô cùng lãng mạn với 'trăng xế', 'hoa lê'. Trong bối cảnh đó, trái tim chàng Kim tràn đầy bâng khuâng. Để diễn đạt sự xúc động của chàng Kim khi gặp Thúy Kiều, nhà thơ sử dụng điển cố của Trung Quốc là điển tích 'đỉnh giáp non thần', kể về việc vua nước Sở mơ thấy nữ thần núi Vu Giáp khiến chàng Kim tỉnh giấc nhưng cũng mơ màng như 'giấc mộng đêm xuân'.
'Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen sáp song đào thêm hương'
Trước sự xuất hiện bất ngờ của Thúy Kiều, chàng Kim 'vội vã mừng rước vào'. Niềm vui hân hoan không che giấu, hiện lên trong biểu cảm và hành động của chàng, đầy trang trọng. Chàng Kim còn thêm dầu vào đèn để tạo ánh sáng, làm cho cuộc gặp gỡ trở nên thiêng liêng, ý nghĩa hơn.
'Tiên thề, cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi'
Dưới ánh trăng sáng, trong không gian đầy thi vị, Kim và Kiều đã thực hiện nghi lễ thề nguyền 'Tiên thề, cùng thảo một chương'. 'Tóc mây' và 'dao vàng' là những biểu tượng của buổi thề nguyền. Mục đích của cuộc gặp gỡ không chỉ là để thỏa mãn nỗi nhớ nhung mà còn là để thực hiện lời thề thiêng liêng, minh chứng cho tình yêu của hai người.
'Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương'
Trong buổi thề nguyền, 'vầng trăng' là nhân chứng cho tình yêu của hai người. 'Vằng vặc giữa trời' là biểu hiện của tấm lòng chân thành, trong sáng mà Thúy Kiều và Kim Trọng dành cho nhau. Không khí trong buổi thề nguyền rất nghiêm túc, sự đồng lòng của cả hai được khẳng định qua 'đinh ninh hai mặt một lời song song', biểu thị sự kết nối của họ. 'Trăm năm tạc một chữ đồng' ám chỉ tình cảm bền vững và chân thành không thay đổi của đôi lứa.
Như vậy, đoạn 'Thề nguyền' đã tạo ra một bức tranh đầy ấn tượng, mơ mộng. Trong không gian tuyệt đẹp của thiên nhiên, Thúy Kiều và Kim Trọng đã thể hiện tình cảm của họ một cách chân thành và thiêng liêng hơn thông qua lời thề nguyền, khẳng định tình yêu vĩnh cửu dành cho nhau. Cảnh thề nguyền dưới ánh trăng được coi là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Thúy Kiều, khi nàng được yêu và yêu thương, sống trong tình yêu mãnh liệt của mình.
Phân tích bài Thề nguyền - Mẫu 7
Khi du xuân dự lễ tảo mộ, Thúy Kiều gặp Kim Trọng bên mộ Đạm Tiên, cùng với hai em Thúy Vân và Vương Quan. Mặc dù mới gặp nhau lần đầu, nhưng cả hai đều cảm nhận được tình cảm đặc biệt về nhau:
'Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e'
Sau khi tình cờ gặp nhau, Thúy Kiều và Kim Trọng đã hứa hẹn với nhau. Trong một buổi chiều tà, khi gia đình đi chơi, Kiều đã tìm đến gặp Kim Trọng. Họ đã cùng nhau làm lễ thề nguyền gắn bó dưới ánh trăng sáng. Đoạn trích từ câu 431 đến câu 452 miêu tả về cảnh tình yêu lãng mạn giữa hai nhân vật Thúy Kiều và Kim Trọng. Bốn câu thơ đầu tiên miêu tả cảnh Kiều đến nhà Kim Trọng lần thứ hai, với sự tình cảm diễm lệ được nhà thơ tài hoa mô tả.
Một mình giữa nhà vắng vẻ,
Suy ngẫm về cơ duyên đã đến hôm nay.
Kiều đã gặp gỡ Kim Trọng. Hai người đã cùng sáng tác và trao đổi văn thơ, cùng chia sẻ tâm tư. Kiều lo lắng về số phận của mình “đen đủi”. Kim Trọng lạc quan, tin vào “vận mệnh thắng trời”, và cam kết “sẽ dám đối mặt với số phận bằng vàng bạc đá quý”. Nghe những lời đó từ Kim Trọng, Kiều cảm thấy “lòng tràn đầy niềm vui”. Có thể đang trong tâm trạng đó, khi về nhà và không thấy ai, Kiều đã vội vã. Đóng cửa nhanh chóng và kéo rèm lại. Dĩ nhiên cảnh trăng đêm có lẽ rất đẹp, nhưng ý định của Kiều không phải là ngắm trăng. Tưởng tượng về hình ảnh “đêm sâu băng giá” có thể làm cho cảm xúc sôi động, không muốn lãng phí thời gian để thực hiện ước mơ của mình. Trong lúc đó thì:
Đời như nắng chiều phai phôi
Chiều này tỉnh tỉnh, chiều này mê mải.
Mệt mỏi sau bao ngày chờ đợi, hoặc vui vẻ khi gặp nhau không phải do hẹn ước mà gặp nhau tự nhiên? Được nhìn thấy, nghe thấy giọng nói của Kiều khiến tâm hồn Kim Trọng như đang bay cao trên chín tầng mây? Có thể cả hai trạng thái đó đều hiện hữu trong hai câu thơ trên. Hình ảnh một Nho sinh vừa chia tay người mà chàng đang thầm yêu nhớ ẩn trong cụm từ “tựa như nắng chiều phai phôi” có vẻ như đang “tỉnh tỉnh”, đồng thời cũng “mê mải” quả thật không dễ dàng để tạo ra. Trong trạng thái đó, Kim Trọng nghe “tiếng sen”, rồi lại thấy “hoa lê”, theo ngôn ngữ ước lệ có thể là tiếng bước chân nhẹ nhàng của Kiều đang tiến tới. Lúc đó, nhà thơ mô tả Kim Trọng mang trong mình cảm xúc như vua nước Sở trong giấc mơ thấy tiên nữ núi Vu Giáp trong sách cổ Trung Quốc. Từ những câu thơ đã miêu tả, nhà thơ chuyển sang hình thức trò chuyện khi Kiều và Kim đối mặt. Kiều bắt đầu:
Nàng nói: “Trong khoảnh khắc tĩnh lặng của đêm trường,
Chúng ta phải mở lòng để tìm ra nhau như hoa.
Bây giờ khi đã hiểu rõ về nhau,
Có thể chẳng còn là một ảo mộng nữa?”
Một phát ngôn chân thành về quan điểm sống của Kiều: Tự chủ trong tình yêu và trân trọng nó trong thực tế. Quan điểm của Kiều về tình yêu khác biệt hoàn toàn so với quan điểm truyền thống về vai trò của phụ nữ trong xã hội xưa: cha mẹ quyết định mọi việc cho con cái. Đạo lý của gia đình Nho đã bao giờ dạy, trong đó có cả Kiều, là phải tuân thủ quy tắc gia đình! Lý do Kiều phá vỡ sự ràng buộc của truyền thống gia đình có lẽ là vì Kiều đã cảm nhận được tình yêu chân thực từ Kim Trọng, và tin tưởng vào con người tài giỏi và lịch lãm này để tự chủ trong mối quan hệ “rõ ràng về chúng ta”. Nghe được những lời thân mật như mở lòng của Kim Trọng, Kiều được mời vào phòng sách, nhanh chóng bật đèn, thêm hương thơm từ trầm. Lúc đó mới lấy tờ giấy hoa để viết thư, dùng dao cắt tóc thành hai phần để đặt lên tờ thư. Từ những câu thơ, người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh tượng trang nghiêm nhưng ấm cúng. Cả hai cùng quỳ xuống, cùng nhìn lên trời...
Trăng vằng vặc treo cao trên trời,
Thề chân tình, đôi lời như song song
Tình tóc tơ lẻ loi, lòng thắt lại,
Một lời thề trăm năm tương đồng đến tận xương tủy.
Cách mà hai người trẻ đã tạo dựng niềm tin trong tình yêu đã tạo ra một bức tranh đẹp và lãng mạn nhưng không kém phần thiêng liêng. Cả hai đều đặt niềm tin của mình vào lời thề. Họ như đôi ca sĩ biểu diễn bài hát của họ là lời thề trung thành và trời là nhân chứng, “vầng trăng”. Bốn câu thơ với từ ngữ như vằng vặc, chân tình, từ song song tạo nên một cặp như đôi trai tài gái sắc Kiều - Kim đang thề “một lời thề trăm năm tương đồng đến tận xương tủy”. Có lẽ vì trọng lời thề ấy mà sau này, khi quyết định hy sinh bản thân để cứu cha và em trai, đặc biệt là trong đêm nhờ cậy Thúy Vân “chạy trốn cơn lửa tình” mà thân bại danh liệt với Kim Trọng, Kiều luôn lo lắng về cái chết, nghĩ đến “xác thịt tan thành đất, oan hồn về nơi cõi âm”, sau khi thốt lên lời ân hận và tạ lỗi cùng Kim Trọng. Sự kiên định trong quan điểm về tình yêu của Thúy Kiều là như vậy, không bao giờ quên lời thề, chấp nhận trách nhiệm của mình và tạo hạnh phúc cho người thân còn sống.
Dựa vào đoạn trích, Nguyễn Du đã mô tả một khung cảnh lãng mạn và tôn vinh tính cách của Thúy Kiều trong đêm thề nguyện cùng Kim Trọng, thông qua miêu tả và đối thoại. Bức tranh được vẽ ra dịu dàng, tuyệt đẹp. Tính cách của Kiều, nhân vật chính, là một người tự chủ, quả quyết và chân thành đã phá vỡ sự nghiêng về tính chất tiếp nhận trong tình yêu của phụ nữ thời xưa do lẽ giáo Nho gia áp đặt. Tuy vậy, tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vẫn nguyên vẹn, sâu sắc. Điều đó đã làm cho Truyện Kiều trở nên hấp dẫn và đáng giá về mặt nhân văn.