Hi vọng rằng đây sẽ là nguồn tài liệu hữu ích giúp các bạn học sinh nắm vững kiến thức hơn, cảm nhận sâu sắc hơn về người thân đang làm việc và có nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Kính mời quý thầy cô và các bạn tham khảo và tải xuống mẫu văn mẫu ở đây.
Dàn ý Sử dụng phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí
1. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác giả: Nguyễn Du - một đại thi hào dân tộc với tài năng vượt trội của mình, ông để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm to lớn có ảnh hưởng sâu rộng tới hậu thế.
- Truyện Kiều là một kiệt tác vĩnh cửu gắn liền với danh tiếng của Nguyễn Du
- Độc tiểu thanh ký là một trong những tác phẩm quý báu mà Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết và tình cảm của mình để tả lên cuộc đời đắng cay của phụ nữ thời xưa.
2. Phần chính
- Giới thiệu về nàng Tiểu Thanh: Một người con gái với vẻ đẹp hoàn mỹ nhưng số phận không may đã khiến nàng phải trải qua những đắng cay, lẻ loi, đời sống cô đơn tại Côn Sơn gần bên hồ Tây.
* Đề bài:
Tây Hồ, quê hương đẹp tỏa sáng
Một tờ giấy tàn cũng có ý nghĩa
(Tây Hồ xưa xanh rờn nước
Nay tan hoang, chất đầy tờ giấy)
- Nguyễn Du sử dụng sự thay đổi của cảnh sắc để thể hiện sự biến đổi của cuộc sống.
- Quay về quá khứ Tây Hồ, một nơi từng đẹp mê hồn giờ đã trở thành đống gò hoang.
- Tác giả biểu đạt tâm trạng xót xa khi nhìn thấy vẻ đẹp ngày xưa của Tây Hồ đã phai nhạt, chỉ còn lại những tờ giấy tàn tả.
-> Tác giả thể hiện sự đồng cảm.
*Hai dòng thực tế:
Văn chương vẫn sống dù thời gian qua đi
(Son phấn góp phần tạo nên vẻ đẹp hoàn mỹ
Văn chương vẫn tồn tại dù thời gian trôi qua)
- Nguyễn Du sử dụng hình ảnh của 'son' và 'phấn' để miêu tả vẻ đẹp tuyệt vời của nàng Tiểu Thanh.
- Thông qua việc mô tả các vật phẩm, nhà thơ biểu đạt sự đau khổ, nỗi cô đơn và sự phấn khích của nàng Tiểu Thanh, cũng như tầm quan trọng của văn chương trong cuộc sống của cô.
- Tính nhân văn của tác giả hiện rõ cảm xúc thương tiếc về những bi kịch trong cuộc đời qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của Tiểu Thanh bắt nguồn từ sự ghen tức, lòng ghen ghét với tài năng của người khác, thực sự là 'hồng nhan bạc mệnh'.
*Hai câu phân tích:
Hận thù từ quá khứ vẫn là bí ẩn không giải thích được
Định mệnh khốc liệt do chính bản thân tạo ra
(Nỗi hờn từ lâu vẫn còn tồn tại, không biết hỏi trời
Định mệnh khắc nghiệt do chính mình gây ra)
- Sự bất công của thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
- Sự đồng cảm, việc chia sẻ nỗi đau của người khác, cảm xúc chung đã biến câu thơ 'định mệnh khốc liệt do chính bản thân tạo ra' trở nên bất hủ, khiến tác giả đồng cảm với nhân vật.
- Thể hiện sự than phiền của số phận con người, nỗi oán trách khó giải trên cuộc đời không chỉ thuộc về Nguyễn Du mà còn là đề tài của nhiều nhà thơ thời đó.
*Hai câu kết luận:
Bất ngờ trong ba trăm năm dù là bao lâu
Thế gian vẫn có ai đến viếng thăm Tố Như
(Không biết qua bao nhiêu thập kỷ
Người ta vẫn đến thăm Tố Như chăng)
- Tiếng khóc cho Tiểu Thanh đã được tác giả hiểu và giải oan cho cô.
- Tác giả tự suy ngẫm về sự đau khổ của cuộc sống cô đơn hiện tại. Câu hỏi đặt ra cho chính mình liệu có ai đến thăm Tố Như với lòng tri ân. -> Khao khát tìm thấy sự đồng cảm trong cuộc sống.
3. Tóm tắt cuối cùng
- Bài thơ thay thế cho tiếng khóc chung lòng, chia sẻ đồng cảm với những số phận phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
- Khẳng định tài năng của Nguyễn Du và lòng nhân ái của ông.
Phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí - Mô hình 1
Tiểu Thanh, một phụ nữ xinh đẹp và tài năng, sống trong thời đại Minh. Cô là vợ của một người tên Phùng, bị vợ cả ghen ghét và hành hạ đến chết. Tập thơ của cô bị đốt chỉ còn lại một phần nhỏ. Cụm từ 'song tiền' (trước cửa sổ) đứng trước 'nhất chỉ thư' (một cuốn sách) để chỉ vị trí của cuốn sách được rời.
Chữ 'lụy' trong bài thơ biểu hiện cảm xúc động lòng, xúc động. Từ 'cư' trong cụm từ 'ngã tự cư ' có ý nghĩa tự chịu trách nhiệm, tự gánh vác.
Trong câu kết bài, có phần trạng ngữ 'tam bách dư niên hậu'. Nguyên văn cả hai câu kết là: 'Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tô' Như?' có nghĩa là không biết sau hơn ba trăm năm, ai sẽ khóc Tô' Như ở đây? Câu thơ này làm rõ ý người sẽ khóc là có, chỉ không biết là ai cụ thể. Tác giả sử dụng từ phủ định 'bất tri' để chỉ việc và người chưa xảy ra.
Nguyễn Du chọn tên tự Tố Như để thể hiện sự tài hoa nhưng đồng thời cũng bi kịch của mình.
Điểm qua vài nét về nguồn gốc. Câu chữ cần được hiểu rõ, cũng như ý nghĩa trong tên tự Tô' Như để nhìn thấy tính biểu tượng của những hình ảnh cụ thể trong Đọc Tiểu Thanh kí. Khi đọc bài thơ, cần khái quát hóa ý nghĩa biểu tượng của những hình ảnh cụ thể trong câu thơ để nhận ra ý tưởng thơ gợi mô tả một quy luật phổ biến nhưng khắc nghiệt mà con người phải đối mặt. Đó là 'sự tương đô' giữa vẻ đẹp và số mệnh'. Trong vẻ đẹp của Tiểu Thanh, còn có tài thơ, vì vậy luận điểm của bài thơ cũng có thể hiểu liên quan đến 'tài mệnh tương đố', một chủ đề gần gũi sẽ được thể hiện rõ hơn trong kiệt tác Truyện Kiều.
Hướng tiếp cận phân tích Đọc Tiểu Thanh kí theo quan điểm đó sẽ giúp hiểu rõ hơn về chiều sâu tâm trạng trong bài thơ. Chúng tôi gọi phương pháp phân tích này là 'phương pháp liên khúc'.
Liên khúc chủ yếu tìm ra môi liên hệ nội tại trong cấu trúc nghệ thuật của bài thơ, đồng thời phải thấy tính chất tương liên, đồng cảm giữa nhà thơ Nguyễn Du với nhân vật Tiểu Thanh để làm nổi bật chủ đề 'tài mệnh tương đố' như một biểu hiện của định mệnh làm khôn khổ bao nhiêu thê' hệ con người.
Đọc Tiểu Thanh kí được Nguyễn Du viết bằng chữ Hán theo thể Đường luật. Khi phân tích b?i thơ này nên làm thông mạch đề, thực, luận, kết của văn bản, vừa phải tìm ra ý tứ bỉ i thơ qua kết cấu ấy.
Vườn hoa (hoa uyển) đã hàm ý sắc màu rực rỡ, biểu trưng vẻ đẹp thắm tươi, đầy sức sống. Bãi hoang đặc tả cái chết khô kiệt hoàn toàn chẳng còn chút dấu vết sự sông ngày qua. Đó là sự thay đổi nhanh chóng, rất cụ thể, nhỡn tiền mà con người không tưởng tượng nổi. Câu thơ dựng lên hai cảnh trái ngược nhưng được nhìn trên cùng trục thời gian mô tả, khiến cho chúng cùng đồng hiện làm tăng thêm tính chất đối lập giữa sắc đẹp dồi dào và sự sống quá ngắn ngủi.
Câu thơ thứ hai là sự tiếp nối ý tứ đã gợi ra ở câu trên 'Độc điếu song tiền nhất chỉ thư' nghĩa là một mình thương cho một tờ sách rơi vương trước cửa sổ. Cả cuốn sách đã mất mát gần hết chỉ còn lại một tờ và tồn tại lay lắt, vương vãi trong lãng quên. Rõ ra là cái phận sách chẳng ra gì! 'Độc điếu' là một mình viếng thăm và thương cảm cho tờ sách chứa chan tình đời và tài năng của người đã tạo ra nó. Câu thơ biểu hiện sự thương cảm của một tấm lòng trước một tấm lòng. Chỉ riêng cụm từ 'nhất chỉ thư ' (một tờ sách rơi) cũng đã tạo ra một cảnh đối lập giữa tài và mệnh, giữa tài cao và mệnh thấp.
Vào bài, câu thơ tả vật nhưng vật làm rõ mối liên thông bên trong giữa tài hoa với mệnh bạc. Mọi sáng tạo của con người bằng tài năng của mình đều là mầm mống dẫn tới phiền lụy giữa những đua tranh, ghen ghét ở đời.
Hai câu thực đã đi vào phân tích việc người, nói trực tiếp về tài sắc và mệnh bạc của con người. Cái phần ưu tú trội vượt lên của tài sắc là cái hiếm hoi không dễ có. Đó là cái thần khí của con người. Con người sinh ra từ cát bụi sẽ trở về cát bụi là lẽ thường tình. Nhưng chết đâu phải đã hết, cái thần thái tinh anh trong tài sắc là bất diệt. Người ta quý trọng nó nên càng thương xót khi nó bị vùi dập phũ phàng. Thái độ 'biệt nhỡn liên tài' thật đáng trân trọng ở một tài danh như Nguyễn Du.
Hai câu thực đã khái quát số phận con người tài hoa mà bạc phận. Dường như đó là định mệnh vây hãm con người:
Rằng hồng nhan tự thuở xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Những câu thơ tiếp theo vẫn là những liên khúc góp phần hoàn chỉnh tư tưởng chủ đề: Vãn chương vô mệnh (không mệnh sống) có gì phải đau lòng khi nó bị người đời hắt hủi? Vậy mà văn chương ở đây bị đốt chỉ còn sót lại một tờ vẫn làm đau xót lòng người. Hẳn phải là thứ văn chương 'rỏ máu' để làm nên tuyệt bút. Tuyệt bút vì cái hồn người, tình đời được gửi vào văn chương ấy. Cả tài văn chương Tiểu Thanh và suy rộng ra tài hoa đã làm nảy sinh lòng đố’ kị, ghen ghét của người đời. Chính cái tài ấy là nguyên cớ của tai họa. Tài sắc là kết quả của bao nhiêu nỗ lực cá nhân nên 'cậy tài' cũng là lẽ thông thường nhưng con người cũng lại phải biết:
Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Hai câu thực trong Đọc Tiểu Thanh kí mượn cuộc đời cụ thể để minh chứng cho hiện tượng 'tài mệnh tương đố' và nguyên nhân dẫn tới tai họa ấy cũng do bởi chính con người tự chuốc vạ vào mình. Đây là việc của con người xuất phát từ lồng người, thói đời nên trời làm sao biết giúp cách nào! Con người phải tự trách mình, tự cứu mình trước đã.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư.
Có phải đó là điều người đời đã biết mà vẫn không tránh được chăng?
Hiện tượng 'tài mệnh tương đổ' đã trở thành phổ biến, tất yếu. Vì vậy, Nguyễn Du đề cập tới nó trong những tác phẩm sau này như một hên khúc nhân sinh.
Tài hoa là của hiếm, thương cho thân phận tài hoa là một biểu hiện của thái độ nhân ái. Đời oan khổ là thế, vậy cứu vớt thế nào đây? Nguyễn Du hé mở cho mọi thời, mọi người lối thoát để 'giải nạn'. Nỗi oan uổng của tài sắc không phải là tự ông trời và hoàn toàn do định mệnh. Trời không can dự vào việc người mãi được thì hỏi làm sao? Phủ nhận 'định mệnh' là để nuôi dưỡng niềm tin cho con người tự vạch ra con đường sống. Phải có tấm lòng 'biệt liên tài' hết mực mới đủ tâm trí nghĩ ra được lối thoát cho đời. Tài sắc do thiên phú nhưng bộc lộ tài sắc thế nào lại là chuyện của con người. Nguyễn Du nhắc nhở hậu thế về thói đời và cả những điểm yếu có trong con người tài sắc. Đó là những hướng mở để giải thoát 'hận sự' và tự tu dưỡng mình. Nhà thơ không những thương yêu mà còn chỉ ra cách giải nạn cứu người. Đó mới là tình thương yêu bao la sâu sắc của con người có 'con mắt nhìn thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời' để nhấn mạnh vai trò nỗ lực chủ quan, định đoạt số phận mỗi người. Để tránh những điều oan khuất kia phải nhờ lương tâm trong sạch và đức tâm, tự trau dồi vẻ đẹp khiêm nhường, vị tha, bao dung và trân trọng tài năng người khác. Được thế cái đức cao cả hòa hợp với tài sắc trời cho sẽ tạo ra con người có vẻ đẹp hoàn thiện. Như vậy, lòng đố kị giữa con người sẽ giảm và sự ngưỡng mộ, trân trọng con người và những giá trị của con người sẽ tăng thêm.
Ước mơ cho nhân loại lành lặn, nhưng Nguyễn Du vẫn thấu hiểu sâu sắc về thực tế đau thương do 'tài mệnh tương đố'’ mang lại và sẽ luôn hiện hữu như một trở ngại cho con người. 'Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?'. Trên thế gian không thiếu những người như Tiểu Thanh, như Nguyễn Du. Ông tin vào điều đó và hiểu rằng: 'Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy'. Sau hơn ba trăm năm, liệu có người nào lại khóc Tố Như như ông đã khóc Tiểu Thanh không? Bức tranh về nhân sinh liên khúc đó sẽ còn tồn tại như một cảnh báo cho con người. Từ quá khứ đã chứng kiến, suy ngẫm về cái sắp xảy ra, cái sẽ đến, Nguyễn Du không chỉ là một người tình cảm mà còn là một tri thức sâu sắc và có trí tuệ, tạo nên Đọc Tiểu Thanh kí. Nỗi đau vì trí tuệ ấy đã thể hiện một khía cạnh chiếu sáng tình thần con người, rất sáng suốt và vô cùng uyên bác, trong tác phẩm của Nguyễn Du.