Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi bao gồm 2 hướng dẫn viết kèm theo 14 bài văn xuất sắc của các học sinh giỏi. Qua bài thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại cáo, bạn sẽ được trang bị kiến thức, suy nghĩ sâu sắc về ý nghĩa của bài thơ để nhanh chóng biết cách viết bài thuyết minh về một tác phẩm văn học hay.
TOP 14 bài thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại cáo không chỉ giúp các bạn học sinh rèn luyện kỹ năng viết văn mà còn giúp nâng cao kiến thức, cải thiện kỹ năng viết văn thuyết minh đầy tính chất, tự tin hơn trong các kỳ thi. Dưới đây là toàn bộ tài liệu mời bạn đọc cùng khám phá.
Dàn ý thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo
1. Mở đầu
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
2. Phần chính:
2.1. Tác giả Nguyễn Trãi:
a. Sự nghiệp và đời sống:
- Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó chuyển về Định Khê, Thường Tín, Hà Nội.
- Sinh ra trong một gia đình danh giá, cha là Nguyễn Phi Khanh, đã đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
- Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh và cùng cha phục vụ triều nhà Hồ, nhưng năm 1407, khi nhà Hồ đổ bể, giặc Minh xâm lược, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam tại thành Đông Quan.
- Năm 1417, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành cố vấn cho Lê Lợi, có nhiều đóng góp quan trọng giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập nên triều nhà Hậu Lê.
- Nhà Hậu Lê thành lập không lâu thì đối mặt với cuộc khủng hoảng, xảy ra mâu thuẫn nội bộ trong nước => Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm.
- Năm 1440, vua Lê Thái Tông mời Nguyễn Trãi ra giúp đỡ đất nước.
- Năm 1442, thảm kịch Lệ chi viên xảy ra, dẫn đến kết cục đau lòng - Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc.
b. Sự nghiệp sáng tác:
* Các tác phẩm chủ yếu trong các lĩnh vực:
- Lịch sử: Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi chép về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Chính trị quân sự bao gồm Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo.
- Địa lý: Dư địa chí - cuốn sách địa lý cổ nhất tại Việt Nam.
- Văn học:
- Chữ Hán: Tập thơ Ức Trai
- Chữ Nôm: Tập thơ Quốc âm - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn tồn tại đến ngày nay.
* Nhà văn nổi tiếng với những luận điểm xuất sắc:
- Để lại một số lượng tác phẩm đáng kể, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo như đã nói ở trên, còn có khoảng 28 tác phẩm khác thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê.
- Bản chất tư tưởng chính là lòng nhân ái, lòng yêu nước và tình thương dân.
- Đặc điểm nghệ thuật: Cấu trúc logic rõ ràng, lập luận sắc bén, sử dụng các kỹ thuật viết linh hoạt tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu và đối tượng.
* Nhà thơ lãng mạn sâu sắc:
- Các tác phẩm còn lại bao gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập
- Bản chất:
- Miêu tả hình ảnh của anh hùng vĩ đại Nguyễn Trãi: Mang trong mình lý tưởng nhân nghĩa, tình yêu nước và lòng thương dân; ý chí kiên cường chống lại sự xâm lược từ bên ngoài và sự bạo lực của quyền lực; các phẩm chất tốt làm mẫu mực cho một người anh hùng.
- Với tư cách của một con người bình thường, ông hiện thân với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, trải qua những gian khổ của cuộc sống xã hội, ông cảm thấy đau đớn trước sự bất công của xã hội, trước sự bạc bẽo và nham hiểm của cuộc sống; ông cũng có tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước và con người, đồng thời thể hiện những mối quan hệ tình cảm sâu sắc giữa cha con, vua dân và bạn bè.
2.2. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo:
a. Ngữ cảnh ra đời:
- Xuất hiện vào cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi quân nghĩa Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn quân giặc, khi Vương Thông đang cố thủ tại thành Đông Quan và phải rút quân về nước.
- Nguyễn Trãi theo lệnh của vua Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để thông báo với thiên hạ rằng dân tộc ta đã giành lại độc lập, tuyên bố độc lập, mở ra một trang mới trong lịch sử của quốc gia.
b. Ý nghĩa của tiêu đề:
- 'Bình Ngô', có nghĩa là làm yên bình quân Minh xâm lược, đánh bại giặc dữ (vì vua Minh đến từ nước Ngô, biểu tượng cho một quốc gia, một dân tộc. Theo một giải thích khác, giặc Ngô còn là thuật ngữ chung chỉ kẻ thù từ phương Bắc, đặc điểm chung của họ là tàn bạo và không nhân đạo).
- Hai chữ 'đại cáo' nghĩa là một bản cáo quan trọng, thể hiện sự quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng cao cả của dân tộc.
- Khái niệm 'cáo': (Tham khảo từ sách giáo khoa)
c. Cấu trúc:
Đoạn 1 tóm tắt nội dung chính nghĩa, đoạn 2 phân tích tội ác của kẻ thù, phần 3 mô tả diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự công bằng.
d. Nội dung:
- Đoạn 1: Tóm lược về nội dung chính nghĩa với hai điểm chính:
- Tư tưởng nhân nghĩa 'Việc làm nhân nghĩa nền tảng ở việc bảo vệ dân tộc/Quân đánh trước để loại bỏ bạo lực', đặt nhân dân làm trung tâm, thể hiện lòng yêu nước, lòng thương dân, và sự hy sinh tất cả cho nhân dân.
- Xác định quyền chủ quyền của dân tộc qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Hiến pháp, biên giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại cai trị và văn hoá xã hội.
- Đoạn 2: Phân tích tính phi nhân nghĩa của quân Minh xâm lược và sự tàn ác của chúng trên đất nước ta:
- Mang danh nghĩa của vua Trần để đưa quân đội xâm lược nước ta.
- Thực hiện việc tàn sát và hủy diệt dân chúng một cách tàn bạo, tận dụng cơ hội thu thuế, bóc lột dân lao động, đẩy dân chúng vào nguy cơ, tận dụng mọi cách để cướp tài nguyên và phá hủy nền nông nghiệp của dân ta.
- Đoạn 3:
+ Tái hiện tài năng và phẩm hạnh của vua Lê Lợi.
+ Mô tả lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn.
- Đoạn 4:
- Tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, thời kỳ của sự độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ.
- Rút ra bài học từ lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng về mệnh trời, quy luật của tự nhiên trong ngũ hành, bát quái, Kinh Dịch:
e. Nghệ thuật:
- Kết hợp một cách hài hòa giữa phần chính luận và văn chương nghệ thuật.
- Phần chính luận được thể hiện thông qua cấu trúc chặt chẽ của tác phẩm, lập luận sắc bén, ngôn từ sắc sảo, hùng tráng.
- Phần văn chương nghệ thuật có văn phong phong phú, pha trộn giữa việc tái hiện các sự kiện một cách khách quan và bày tỏ trực tiếp cảm xúc của tác giả. Lối viết đậm tính nghệ thuật, sử dụng hình tượng sống động tạo nên sức mạnh gợi cảm, mở ra không gian miêu tả rộng lớn, áp dụng kiến thức về lịch sử và truyền thống một cách thông minh.
3. Tổng kết:
Tóm lược cảm nhận.
Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 1
Trải qua thăng trầm của lịch sử văn học Việt Nam, nhiều tác phẩm đã trở thành biểu tượng không bao giờ bị thời gian xóa mờ, và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng thuộc vào số đó. Được coi là một tác phẩm 'hùng văn thiên cổ', là bản tuyên ngôn thứ hai của dân tộc, Bình Ngô đại cáo thể hiện lòng yêu nước và sự quan tâm đặc biệt đối với nhân dân. Đây chính là bản cáo đặc biệt, làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi - một nhà văn và nhà chính trị vĩ đại, một người nhân đạo dành cho dân tộc.
Năm 1428, khi Lê Lợi đăng quang lên ngôi hoàng đế và lập triều Hậu Lê, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để thông báo chiến thắng của dân tộc sau 10 năm chiến đấu dũng mãnh. Đây là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, viết bằng thể cáo và sử dụng chữ Hán, được chia thành bốn phần.
Mở đầu bài thơ và cũng là bản sắc tri thức chảy dọc theo tác phẩm là luận đề chính nghĩa luôn được Nguyễn Trãi tôn trọng, đó cũng là mục tiêu cao cả, thiêng liêng của cuộc đấu tranh
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Ngược với tư tưởng Nho giáo cho rằng tư tưởng nhân nghĩa là tình yêu thương, sự chăm sóc lẫn nhau của con người, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại tập trung vào loại bỏ bạo lực và bảo vệ sự yên bình cho dân chúng. Nguyễn Trãi ưa chuộng luận điểm chính nghĩa với ý nghĩa mang lại hòa bình, sự phát triển cho dân chúng. Nguyễn Trãi cũng khẳng định rằng dù dân số và quy mô của nước ta nhỏ bé, nhưng tự hào về sự độc lập, chủ quyền và văn hóa được thể hiện qua nhiều khía cạnh:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ về lãnh thổ dân tộc trên nhiều khía cạnh như văn hiến lâu đời, lãnh thổ được xác định rõ ràng, những đặc điểm riêng về phong tục, tập quán. Ngoài ra, Đại Việt còn có những triều đại vĩ đại không thua kém triều đại phương Bắc. Chủ quyền không phụ thuộc vào thiên thư hay các yếu tố tâm linh mà được xác định một cách hợp lý, khoa học. Nguyễn Trãi đã thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại lừng lẫy phương Bắc. Mặc dù quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước có thăng trầm “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau” nhưng vẫn tồn tại những người con trai sẵn sàng chiến đấu khi đất nước gặp nguy.
“Vì vậy
Lưu Cung lỡ công nên gặp thất bại
Triệu Tiết đồ sư lớn phải hi sinh
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết chết Ô Mã
Công việc xưa còn được xem xét
Chứng cứ vẫn còn ghi chép”
Bình Ngô đại cáo đã tuyên bố rõ ràng hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, sử dụng sức mạnh quân sự để ép những dân tộc yếu thế phải trả giá bằng máu, xương. Không minding luân lý xâm phạm Đại Việt, quân ngoại xâm đã phải hứng chịu những thất bại đắng cay “hi sinh”, “bắt giữ”, “hành quyết”. Các chiến thắng vang dội của dân ta cũng là một khẳng định mạnh mẽ rằng nếu dám xâm phạm lãnh thổ nước ta sẽ đón nhận thất bại, đắng cay.
“Gần đây:
Nhà Hồ gây ra những phiền muộn không lớn
...
Tàn phá cả dòng giống côn trùng và thảm họa cây cỏ”
Trong thời kỳ rối ren này của đất nước, triều đình Hồ “gây ra những phiền toái không lớn”, dân chúng sống trong hoàn cảnh khốn khó, oan trái, xung đột nội bộ được đẩy lên đến đỉnh điểm. Tận dụng tình hình không ổn định này, quân Minh đã cơ hội để xâm lược lãnh thổ Đại Việt “lợi dụng để gây rối”. Quân xâm lược với tư duy không chính nghĩa đã áp dụng những kế sách tinh quái, thủ đoạn nhằm bóc lột dân tộc ta đến tận cùng. Chúng buôn bán máu của dân tộc ta trên chính lãnh thổ quê hương để giúp đỡ sự phồn thịnh, thịnh vượng cho dân tộc chúng. Không ngần ngại thủ đoạn, hành động tàn nhẫn, chúng gây ra sự loạn nhường khắp nơi, tội ác của chúng ngày càng trở nên tàn bạo. Những từ ngữ quyết liệt “nướng con đen”, “vùi con đỏ” để tiết lộ bản chất tàn ác của quân Minh.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 2
Nguyễn Trãi là một anh hùng vĩ đại của dân tộc, cũng là một nhà văn vĩ đại của thời đại. Ông sinh ra tại Hải Dương trong một gia đình nghèo. Cả hai bên nội và ngoại của Nguyễn Trãi đều có truyền thống yêu nước và văn hoá, văn học. Cuộc đời ông đã phải trải qua nhiều mất mát và đau khổ khi mất mẹ từ khi còn nhỏ.
Khi đất nước gặp nguy, Nguyễn Trãi, tuân thủ lời dặn của cha, đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đóng góp một phần lớn trong chiến thắng lẫy lừng của dân tộc. Dù gặp phải bất công, ông và gia đình bị hại, nhưng vào năm 1964, vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi. Mặc dù ra đi, ông để lại một lượng lớn các tác phẩm văn chương, thành công trên nhiều thể loại, tiêu biểu là các tác phẩm bằng chữ Hán và chữ Nôm có giá trị như: Quân Trung từ mệnh tập, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, hay Quốc âm thi tập,... Ông không chỉ là một nhà thơ sâu sắc với tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và cuộc sống, mà còn là một nhà văn chính trị kiệt xuất của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm thành công, một di sản vô giá của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm được viết vào năm 1928 sau chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi được vua Lê Lợi giao việc viết Bình Ngô đại cáo. Đây được xem là tuyên ngôn độc lập của dân tộc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là một bản án đanh thép về tội ác của quân xâm lược, là một bản ca chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và là sự khẳng định vẻ đẹp của sự nghiệp chính nghĩa và thành quả của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo đã thể hiện sức mạnh của nhân dân, tư tưởng nhân dân và tư tưởng yêu nước. Yêu nước không chỉ là chống lại kẻ thù ngoại xâm, mà còn là lấy nhân nghĩa, bảo vệ dân làm trọng tâm khi yên bình.
'Nghe nói:
Tư tưởng nhân nghĩa chính là ở việc bảo vệ dân lành
Quân đội trừng trị trước để ngăn chặn sự tàn bạo
Như quốc gia Đại Việt từ lâu
Là nền văn hiến được truyền dài
Núi sông và biển đảo đã chia cắt
Phong tục ở Bắc và Nam có sự khác biệt
Từ triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần đã xây dựng nền độc lập
Với triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên đều có những anh hùng và danh tiếng riêng
Mặc dù có những thời kỳ mạnh mẽ và yếu đuối khác nhau
Nhưng luôn tồn tại những anh hùng lớn mạnh'
Tội ác và mưu đồ của quân giặc được phơi bày rõ ràng qua các lập luận sắc bén:
'Gần đây:
Gia tộc Hồ gây ra nhiều phiền toái,
Để lòng dân nước chúng ta căm phẫn.
Quân Minh hung ác lợi dụng cơ hội tạo ra thảm họa,
Bọn tà ác bán nước tìm kiếm vinh quang.
Đốt người dân chết trên đống lửa hung dữ,
Chôn người chết dưới lòng đất chứa đầy cái tai họa.
Lừa dối dân chúng bằng muôn vàn kế sách,
Châm ngòi chiến tranh kích động lòng oán hận suốt hai mươi năm.
Nhân nghĩa tan vỡ khắp nơi,
Thuế nặng chật kín không chịu nổi.
Người bị ép xuống biển nước lưng mò ngọc, ghét cá mập ầm ĩ.
Người bị dẫn vào rừng đốt cát tìm vàng, chịu khổ trong rừng sâu, nước nguy hiểm.
Đốn sản vật, bắt chim cút, bẫy ở mọi nơi,
Quấy rối dân, bẫy hươu đen, đặt cạm bẫy ở mọi nơi.
Tàn phá cả loài côn trùng và cây cỏ,
Nghèo đói thay cho người mất trí lúc tột cùng.'
Tác phẩm thể hiện tài năng của tác giả khi sử dụng lối văn sắc bén, thể hiện bằng lời lẽ mạnh mẽ, các bằng chứng rõ ràng, lập luận sắc nét, cấu trúc logic chặt chẽ. Hình ảnh nghệ thuật sống động và giàu cảm xúc. Nghệ thuật lập luận sâu sắc, nhân đạo và mới mẻ. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm mẫu mực thể hiện sức mạnh và niềm tin của quốc gia và dân tộc.
Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo - Mẫu 3
Nằm trong số những tác phẩm văn học được sáng tác để tôn vinh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, “Đại cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem là một tác phẩm vĩ đại vượt thời gian. Tác phẩm được coi là một tuyên ngôn độc lập quý báu, là một trong những di sản trường tồn.
Nguyễn Trãi (sinh năm 1380 – mất năm 1442), tự Ức Trai, xuất thân từ Chi Ngãi (Chí Linh, Hải Dương) trước khi chuyển đến Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Gia đình ông, mặc dù nghèo nhưng đã truyền lại truyền thống yêu nước và quan tâm sâu sắc đến văn hóa, văn học dân tộc. Cha ông, Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh và ông ngoại, Tư đồ Trần Nguyên Đán, đều là những người có kiến thức rộng lớn và đã có nhiều đóng góp cho triều đình.
Hướng theo tấm gương của những thế hệ tiền bối, Nguyễn Trãi đã chăm chỉ nghiên cứu lịch sử và năm 1400, ông đã đỗ cử nhân và bắt đầu sự nghiệp làm quan trong triều đình nhà Hồ. Khi quân Minh xâm lược vào năm 1407, dù nhà Hồ không đủ sức chống lại, Nguyễn Trãi quyết định tham gia nghĩa quân Lam Sơn để giải phóng đất nước và trả thù giặc.
Với sự lãnh đạo thông minh và sự hỗ trợ từ những người cộng sự nhiệt thành như Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã đánh bại quân Minh một cách to lớn. Nguyễn Trãi được Lê Lợi tin tưởng và sau đó trở thành vị vua của Đại Việt. Tuy nhiên, sau này, triều đình lại trở nên rối ren, bất ổn và Nguyễn Trãi quyết định rút lui về quê nhà.
Tuy nhiên, mong muốn sống êm đềm, ẩn dật của Nguyễn Trãi không thành hiện thực khi ông bị vướng vào vụ án oan làm cho vua bị sát hại tại Lệ Chi Viên vào năm 1442 và bị kết án tru di tam tộc. Nỗi oan trách của ông kéo dài cho đến năm 1464, khi vua Lê Thánh Tông minh oan cho ông.
Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc một di sản văn học có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Ông sáng tác cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, trải qua nhiều thể loại văn chính luận và văn trữ tình. Hầu hết các tác phẩm của ông đều hỗ trợ mạnh mẽ cho cuộc chiến chống quân xâm lược và thể hiện những trải nghiệm, tâm trạng của ông về đất nước và con người.
Trong việc giải thích về Đại cáo Bình Ngô, chúng ta nhận thấy rằng tác phẩm này ra đời liên quan chặt chẽ đến tình hình của quốc gia sau khi hoàn thành cuộc chiến đấu đánh đổi với sự cay đắng chống lại quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi, sau chiến thắng đó, đại diện cho Lê Lợi viết tác phẩm với mục đích tuyên bố cho toàn dân về quyền tự do của dân tộc. Đại cáo Bình Ngô được công bố vào năm 1428, là bản báo cáo tổng kết quá trình chiến đấu đạt được chiến thắng và đồng thời là một tuyên ngôn về việc thành lập triều đại mới của quốc gia – triều nhà Lê.
Tác phẩm được viết dưới dạng thể loại đặc biệt – thể loại cáo. Đây là loại văn nghị luận đã tồn tại từ thời cổ ở Trung Quốc và thường được các vị vua, lãnh đạo sử dụng để trình bày một quan điểm, một sự nghiệp hoặc tuyên bố những sự kiện quan trọng để mọi người biết. Thể loại cáo thường được biểu diễn dưới hình thức văn vần, văn xuôi nhưng phổ biến nhất là văn biền ngẫu – loại văn sử dụng sự đối chiếu làm nguyên tắc cơ bản, tạo ra sự cân đối nhịp nhàng cho văn từ. Cáo sử dụng ngôn từ sắc bén, lý luận sâu sắc và đặc biệt là có cấu trúc chặt chẽ, mạch lạc.
Tiêu đề của tác phẩm đã giúp người đọc hình dung về giá trị của nó. Từ “đại cáo” trong tiêu đề đã thể hiện rằng đây không chỉ là một bản cáo thông thường mà còn là một bản cáo mang tính quốc gia quan trọng. Ngoài ra, mặc dù là cuộc chiến chống lại quân Minh xâm lược nhưng từ “Ngô” trong tiêu đề cũng đáng chú ý. “Ngô” ở đây là cách gọi người Trung Quốc theo quan điểm của người Việt với một tinh thần khinh bỉ và căm hận sâu sắc. Kể từ thời xa xưa, kẻ thù từ phương Bắc luôn âm mưu xâm chiếm đất nước chúng ta, khiến cho nhân dân phải chịu khổ cực, than vãn không ngớt. Vì thế, dân tộc ta không ngừng oán trách sự tàn bạo, ngạo mạn của chúng và hiện nay, mọi căm phẫn, bất mãn đều đổ dồn lên kẻ thù hiện tại là quân Minh.
Để làm rõ về nguyên tắc chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định ở đầu tác phẩm:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Luận đề về mối quan hệ giữa dân, nước và nhân nghĩa đã được đặt ra, nhấn mạnh vào ý nghĩa của việc đối xử nhân từ và tôn trọng giữa con người trong xã hội. Trái với tinh thần của đạo Nho, nhân nghĩa không chỉ đơn thuần là một khái niệm mà còn là hành động thực tế, như việc 'trừ bạo' để bảo vệ sự yên bình cho dân cư trong thời kỳ chiến tranh.
“Dòng chảy văn minh của Đại Việt đã từng bước phát triển.
Văn hoá lâu đời đã tạo nên danh tiếng cho chúng ta.
Phong tục và tập quán địa phương khẳng định vị thế đặc biệt của vùng đất này.”
Qua các thời kỳ lịch sử và sự hiện diện của các anh hùng dân tộc, chúng ta thấy rằng:
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần đã cống hiến cho sự độc lập của dân tộc.
Với các thế lực lớn như Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi phương hướng đều tự xưng là hoàng đế.
Dù sức mạnh không đồng đều qua từng giai đoạn lịch sử.
Nhưng mỗi thời đại đều có những anh hùng của riêng mình.”
Khi nói về tuyên ngôn Bình Ngô đại cáo, chúng ta thấy rằng bên cạnh việc xác nhận quyền tự chủ, độc lập của dân tộc, 'Đại cáo Bình Ngô' còn là lời tuyên bố mạnh mẽ đối với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra cho nhân dân suốt hai thập kỷ chiến tranh. Khi đặt chân đến đất nước, chúng đã bày tỏ mình là kẻ xâm lược, kẻ hung ác:
“Dòng họ Hồ đối mặt với những gánh nặng
Thời cơ của Minh đang được bọn họ lợi dụng tạo ra rắc rối.”
Chúng không ngừng cố gắng cướp bóc, đẩy dân ta vào hoàn cảnh nguy hiểm:
“Người bị đẩy xuống biển tìm kiếm ngọc bích, phải đối mặt với cá mập hung dữ, với sóng lớn dữ dội.
Kẻ bị ép vào rừng tìm kiếm vàng, phải chịu đựng nỗi đau từ cát nóng, nước độc.
Tàn ác và độc ác hơn, chúng sẵn sàng diệt trừ sự sống của con người bằng những cách tàn bạo:
“Ngọn lửa tàn bạo thiêu đốt những người vô tội,
Đưa những đứa trẻ vào cảnh đau khổ tột cùng.”
Hiện ra những cảnh kinh hoàng không thể chối cãi:
“Miệng kêu cứu, răng cắn, máu chảy đầm đìa nhưng chúng không thể được thoả mãn”
Sự tội ác của chúng đang tích tụ lên nhau, không thể nào kể hết:
“Độc ác tràn lan, sông Nam Sơn không thể đánh dấu hết những tội ác,
Bẩn thỉu lan tràn, biển Đông Hải không thể rửa sạch đi hết mùi hôi tanh.”
Khi đề cập đến tội ác của kẻ thù, tác giả đã lựa chọn những điển hình tàn bạo như “sông Nam Sơn”, “biển Đông Hải” để nói về sự tàn ác và bẩn thỉu của chúng. Trong bản tuyên ngôn đó, chúng ta cảm nhận được sự bức xúc, tức giận và lòng căm phẫn của tác giả. Tâm trạng đau đớn, sự than van: “Có ai hay trời đất thấu hiểu” – “Ai có thể chịu đựng nổi?” là biểu hiện của lòng nhân ái, luôn chia sẻ khổ đau và lo âu cùng nhân dân.
Với tội ác của kẻ thù, dân quân ta đã đoàn kết, đứng vững chống lại sự xâm lược để bảo vệ sự độc lập quốc gia. Các anh hùng cứu nước, đặc biệt là vị tài phú Lê Lợi dù bắt nguồn từ tầng lớp nhân dân thấp hèn:
“Chúng tôi ở đây:
Núi Lam Sơn reo gọi khát vọng cách mạng,
Chỗ hoang dã trở thành nơi chôn vấn đề quốc gia.”
Khi chiến đấu với kẻ thù, chúng ta trải qua muôn vàn khó khăn:
“Anh hùng tỏa sáng như ngôi sao lúc bình minh,
Tài năng hiện diện như lá mùa thu rơi.”
Đôi khi phải đối mặt với nhiều thiếu thốn về lương thực và quân số:
“Khi lương thực trên Linh Sơn đã cạn kiệt trong mấy tuần,
Khi quân lính ở Khôi Huyện không còn một đội sống sót.”
Nhưng với tinh thần “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn”, và niềm tin “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”, quân ta đã cùng nhau “nỗ lực vượt qua khó khăn”. Cuối cùng, sau nhiều năm ngày chinh chiến, người lãnh đạo phải “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “trải qua cơn mộng mị”, “phải suy nghĩ một nỗi không biết ngợi ca”…, quân dân ta đã đánh bại kẻ thù đến mức “giải phóng hoàn toàn”, “làm cho chim muông bay tan tác”. Chúng ta giành lại độc lập, và thất bại của kẻ thù là kết quả không thể tránh khỏi cho cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Mặc dù giặc tàn bạo, nhưng sau bao nỗi đau đớn, sự căm hận, chúng ta vẫn sử dụng lòng nhân từ để mở cánh cửa cho chúng sống. Điều này cho thấy cách chúng ta đối xử với tội ác của kẻ thù đã nâng cao tinh thần nhân nghĩa của chúng ta lên một tầm cao mới.
Cuối cùng, việc thiết lập lại độc lập và tự do cho đất nước sau bao nhiêu đau khổ là kết quả tuyệt vời cho một dân tộc anh dũng, biết sống nhân nghĩa. Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo là một phần không thể thiếu khi Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố rộng rãi trước quần chúng:
“Từ đây, xã tắc sẽ vững bền,
Đất nước từ đây sẽ thay đổi mạnh mẽ.
Thời kỳ kiến khôn sẽ trở thành thời kỳ thái bình,
Thời kỳ áp bức sẽ trở thành thời kỳ minh bạch.
Nền thái bình vững chắc sẽ kéo dài muôn thuở,
Vết nhục của hàng nghìn thập kỷ sẽ được xóa sạch.”
Tuyên bố này thể hiện niềm tin mạnh mẽ của tác giả vào một tương lai bình yên, bền vững cho dân tộc. Sau những ngày sống trong bóng tối của áp bức và bóc lột, quân dân ta đã tìm thấy ánh sáng cho cuộc sống của họ. Hai câu cuối của bản tuyên bố cũng là sự kết thúc cho thời kỳ chiến tranh và sự mở đầu cho một giai đoạn mới của sự phát triển:
“Với ý chí chiến thắng vững vàng, chúng ta đã đạt được công lớn kéo dài hàng nghìn năm;
Biển cả bốn phương đều thanh bình, ánh sáng chân trời chiếu sáng khắp mọi nơi.”
Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo không chỉ nổi bật về nội dung mà còn là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc. Trong việc viết, Nguyễn Trãi đã kết hợp một cách linh hoạt giữa văn chương và luận lý. Đồng thời, ông cũng sử dụng ngôn từ phong phú và hình ảnh sống động, hoành tráng.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn sử dụng sự đa dạng và phong phú trong việc mô tả, thể hiện sự tương phản giữa cuộc chiến đấu của chúng ta và kẻ thù. Phần mô tả về cuộc khởi nghĩa của chúng ta có thể được coi là một trong những phần đặc biệt về mặt nghệ thuật trong “Bình Ngô đại cáo”.
Nhà thơ đã thành công trong việc sử dụng phương pháp liệt kê hình ảnh và tạo ra sự tương phản rõ ràng. Chúng ta thể hiện “sự thông minh trong tình huống khó khăn”, “sự can đảm của những người lãnh đạo”, trong khi đó, kẻ thù lại xuất hiện trong hình ảnh của “sự thất bại”, “sự tuyệt vọng”.
Có thể thấy, với những giá trị trên, 'Đại cáo bình Ngô' xứng đáng là một tác phẩm lưu danh sử sách đến muôn đời. Bài cáo không chỉ khẳng định hùng hồn nền độc lập, chủ quyền của đất nước mà còn góp phần thể hiện cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất và tấm lòng nhân đạo, tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta…
Thuyết minh Đại cáo Bình Ngô - Mẫu 4
Trong dòng văn học yêu nước của dân tộc, có biết bao kiệt tác văn học đáng ngưỡng mộ và tự hào. Chúng ta càng tự hào về truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết qua những trang sử vẻ vang viết về cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đó là Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, là Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh,...Đặc biệt, một trong số đó phải kể đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, một tác phẩm bất hủ được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
Vào năm 1427, quân Minh do Mộc Thạnh và Liễu Thăng cầm đầu bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại và thu phục. Tháng 12 năm 1427, Vương Thông đêm quân theo sông Nhị Hà về nước theo lời ước giao hoà, được nghĩa quân Lam Sơn cấp lương thực và vật dụng để trở về. Đến năm 1428, quân giặc dẹp yên, đất nước không còn bóng quân Mình, Lê Lợi đã giao cho Nguyễn Trãi làm bài cáo để tổng kết cuộc đấu tranh, tuyên bố thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.
Tác phẩm được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo. Khác với các thể loại khác, thể cáo thường được sử dụng nhiều trong các sự kiện trọng đại để thông báo cho quốc gia, dân tộc những nội dung quan trọng. Đây là loại văn hùng biện, chính luận nên ngôn từ thường sâu sắc, lý lẽ sắc bén và lập luận logic, chắc chắn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán và lấy nhan đề là 'Bình Ngô đại cáo' với ý nghĩa tuyên bố đến toàn dân về việc giặc Ngô đã được dẹp yên, đồng thời cũng thể hiện thái độ khinh bỉ trước tội ác quân giặc, những kẻ nhởn nhơ làm điều phi nghĩa cuối cùng cũng bị đánh bại.
Bình Ngô Đại cáo được phân thành 4 phần với các nội dung lớn. Phần đầu tiên từ đầu đến 'Chứng cớ còn ghi', trong phần này, tác giả đã đề cập đến luận điểm chính nghĩa, trọng tâm của cuộc chiến là vì nhân dân, tư tưởng nhân dân chính là 'việc nhân nghĩa' khi tham gia vào cuộc chiến. Điều này là phù hợp để khởi đầu cho tác phẩm, vì một cuộc chiến bắt nguồn từ lợi ích của nhân dân, vì nhân dân và dân tộc thì luôn là cuộc chiến chính nghĩa, trong đó 'trừ bạo', tiêu diệt giặc là công việc hàng đầu lúc ấy. Hơn nữa, cũng trong đoạn này, Nguyễn Trãi so sánh đất nước ta với các triều đại phương Bắc để khẳng định nền độc lập, sự bình đẳng của Đại Việt so với các triều đại phương Bắc. Chứng minh và khẳng định lòng yêu nước và hùng hồn của Đại Việt bằng lịch sử lâu dài, lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, cùng với những nhân tài, anh hùng bất tử.
Đoạn thứ hai từ 'Vừa rồi' đến 'Ai bảo thần dân chịu được'. Sau khi đề cập đến luận điểm chính nghĩa, Nguyễn Trãi mạch lạc phơi bày hành vi 'phi nghĩa' của bè lũ giặc Minh cướp nước. Bằng cách sử dụng ngôn từ mạnh mẽ, lời nói đanh thép, tội ác của giặc Minh được tiết lộ như một vụ án tàn bạo dành cho chúng:
'Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.'
Sự tàn bạo của chúng đạt đến đỉnh điểm khi âm mưu giả dối, hành động phi nhân, không có đạo đức. Chúng giết người tàn bạo, không khoan nhượng với người nghèo khốn khó, chúng thực hiện những chính sách tàn ác, dã man, khiến nhân dân phải chịu nỗi đau tinh thần và thể xác:
'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.'
Càng phơi bày sự tàn ác của kẻ thù, tác giả càng thể hiện sự đau đớn, xót xa đối với những nỗi khổ cực, gian truân mà nhân dân phải chịu đựng. Tiếng thơ vừa đầy căm phẫn, vừa đầy xót xa.
Đoạn thứ ba chiếm đa số câu từ, từ 'Ta đây núi Lam Sơn dậy nghĩa' đến 'Cũng chưa từng thấy' Nguyễn Trãi dùng trang dài nhất để tổng kết cuộc chiến vĩ đại của nghĩa quân Lam Sơn vừa qua. Một lần nữa khẳng định sức mạnh dân tộc, ý chí chiến đấu kiên cường của dân tộc và kết quả xứng đáng mà Đại Việt đạt được. Mọi cuộc chiến đều gặp khó khăn khi bắt đầu, nghĩa quân Lam Sơn cũng vậy. Ban đầu, chúng ta phải đối mặt với vấn đề lương thực, thiếu vũ khí, đội quân ít người, thiếu nhân tài, anh kiệt. Nhưng 'khó ló cái khôn', khó khăn không làm nghĩa quân chùn bước mà ngược lại họ sử dụng trí tuệ để tìm ra chiến thuật hay trong chiến đấu.
'Lợi nhỏ thắng kẻ mạnh
Người ít hạ kẻ đông'
Cùng với lãnh đạo anh minh, sáng suốt, nghĩa quân ngày càng mạnh mẽ, quyết tâm chiến đấu. Thắng lợi liên tục, càng chiến đấu càng kiên cường, thu về nhiều chiến công. Quân Minh thất bại trong sự nhục nhã, khốn khổ, và kẻ phi nghĩa không thể tránh khỏi hai từ 'thất bại'.
Cuối bài cáo, Nguyễn Trãi đại diện cho Lê Lợi tuyên bố hùng biện về việc kết thúc chiến tranh và khẳng định sự độc lập vững chắc, thái bình của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo thu hút lòng yêu thương của dân chúng và độc giả qua các thế hệ không chỉ vì nội dung sâu sắc mà còn nhờ vào tài nghệ thuật tài tình của Nguyễn Trãi. Bài cáo ấn tượng với ngôn từ sắc bén, lập luận chính xác, và các hình ảnh nghệ thuật sâu sắc, gợi cảm xúc. Các thủ pháp so sánh, liệt kê, đối lập được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp. Giọng điệu của thơ thay đổi linh hoạt, từ căm phẫn trước sự tàn ác của quân thù, đồng cảm với nỗi đau của nhân dân, đến sự mãnh liệt và hùng biện trong tái hiện cuộc chiến đấu, và cuối cùng là sự trang trọng, hòa bình trước bóng tối của quân thù.
Tác phẩm Đại cáo Bình Ngô là một tác phẩm văn học có giá trị và chứa đựng lòng yêu nước sâu sắc của văn học Việt Nam. Đọc bài cáo, tôi hiểu thêm về những nỗi đau của nhân dân, hiểu thêm về lịch sử huy hoàng của dân tộc. Và qua đó, tôi nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của bản thân mình trong thời đại hiện nay, phải biết yêu quê hương, quê đất, phải sống hết mình để xây dựng và phát triển quê hương, xứng đáng với những hy sinh của các bậc tiền bối.
Thuyết minh về bài Đại Cáo Bình Ngô - Mẫu 5
Là một tác giả vĩ đại trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi để lại cho thế hệ sau một khối lượng tác phẩm đồ sộ, ấn tượng. Văn chương của ông gắn liền với số phận của con người. Trong số đó, áng văn học hùng biện “Bình Ngô đại cáo” nổi bật.
Là một tác phẩm văn học lưu danh, Bình Ngô đại cáo tổng kết lại cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài mười năm của nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo cũng thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của quân và dân, truyền thống bảo vệ độc lập dân tộc và tinh thần nhân nghĩa, vì nhân dân, vì con người xuyên suốt. Với bút pháp chính luận kết hợp với trữ tình qua giọng văn truyền cảm, mạnh mẽ, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một kiệt tác văn học, được đọc giả ca tụng muôn đời.
Bài cáo được viết bằng lối văn thông dụng, dùng để tuyên bố về một sự kiện trọng đại của quốc gia, của dân tộc. Bài cáo giữ một vai trò quan trọng trong phương diện lịch sử trong thời hiện đại khi thể loại cáo dần thất truyền sau chế độ phong kiến tan rã. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo vào đầu năm 1428 để tuyên cáo chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định nền độc lập, hòa bình của dân tộc, buộc quân Minh ký kết hòa ước, rút quân về nước, kết thúc một thời kỳ đen tối của nước nhà và mở ra một thời đại thịnh vượng, phồn vinh cho đất nước.
Bài cáo có bố cục chặt chẽ, mạnh mẽ thông qua việc chia thành bốn đoạn. Đoạn đầu tư tưởng nhân nghĩa trong việc lập căn cứ chính thống của nghĩa quân Lam Sơn. Đoạn hai vạch trần tội ác, sự tàn bạo của quân Minh. Đoạn ba về quá trình kháng chiến gian khổ và chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn. Và đoạn cuối cùng là về tuyên cáo nền độc lập, hòa bình của dân tộc, mở ra một thời kỳ yên bình cho đất nước.
Xuyên suốt trong cả bốn đoạn, bài cáo xoay quanh bốn cảm hứng nhân văn như trong bất kỳ cuộc kháng chiến nào: tư tưởng nhân nghĩa, ý chí, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, giành lại nền độc lập, hòa bình của nghĩa quân và cảm hứng độc lập, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. Bài cáo kết lại trong viễn cảnh huy hoàng, trong sự tươi sáng của non sông gấm vóc.
Bài cáo không chỉ thành công về mặt thể loại mà còn thành công trong nội dung, nghệ thuật, giọng điệu linh hoạt và ý chí sục sôi, căm thù giặc. Nguyễn Trãi đã viết nên một tác phẩm để đời, thổn thức trái tim người đọc, vượt thời đại. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là trụ cột của văn học trung đại Việt Nam, tự hào của dân tộc.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 6
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước suốt lịch sử văn học Việt Nam, 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng 'thiên cổ hùng văn', là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.
'Bình Ngô đại cáo' được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi -62 là anh hùng dân tộc, là người tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh và là nhà văn chính luận kiệt xuất, cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.
Tác phẩm 'Bình Ngô đại cáo' được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu tư tưởng nhân nghĩa và độc lập dân tộc: 'Việc nhân nghĩa yên dân-Quân đảm trước lo trừ bạo' và 'Như nước Đại Việt từ lâu-Vốn xưng nền văn hiến'.
Đoạn thứ hai vạch trần tội ác của giặc Minh, tố cáo giặc ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù. Đoạn văn thứ ba là anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn cuối tuyên bố kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước.
Bài cáo kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa chính luận sắc bén và văn chương truyền cảm, kết hợp lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng anh hùng sôi nổi, mãnh liệt nổi bật xuyên suốt tác phẩm. Giọng điệu rất đa dạng, từ tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc đến căm phẫn trước tội ác của kẻ thù, thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, hào hùng ngợi ca chiến thắng, trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
'Đại cáo bình Ngô' của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn truyền tải lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:
'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…'
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 7
Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam. Ông để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ cho hậu thế. 'Bình Ngô đại cáo' - viết sau đại thắng năm 1427, là bản tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến mười năm, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, mà còn nêu cao “chí nhân, đại nghĩa” như một giá trị văn hóa ngời sáng của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hào hùng và lời văn truyền cảm mạnh mẽ, tác phẩm đã trở thành một áng “thiên cổ hùng văn”.
Bình Ngô đại cáo là một tuyên bố quan trọng được viết bằng văn văn ngắn gọn, thường được sử dụng để thông báo những sự kiện quan trọng của dân tộc. Ban đầu được viết bằng chữ Hán, sau được dịch ra tiếng Việt. Tác phẩm mang giá trị lịch sử và văn học lớn, kể lại cuộc kháng chiến thành công của Lam Sơn trước quân Minh, bảo vệ độc lập và hòa bình cho đất nước.
Bình Ngô đại cáo là một bản tuyên bố quan trọng về việc đánh bại quân Ngô, một biểu hiện của sự khinh bỉ và căm ghét quân Minh xâm lược. Bài viết được tổ chức rõ ràng và mạch lạc, chỉ trích và lên án tội ác của quân địch, khẳng định chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm tập trung vào năm cảm xúc chính: chính nghĩa, căm hận quân xâm lược, tinh thần của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lòng tự do và tương lai của dân tộc. Bốn cảm xúc này được phân chia thành bốn phần tương ứng.
Bình Ngô đại cáo bắt đầu bằng việc nêu nguyên tắc của chính nghĩa, là cơ sở để phát triển nội dung của tuyên bố. Nguyên tác này phản ánh tinh thần Nho giáo và nhân nghĩa, tạo nên một lập luận dân tộc:
“Chỉ cần nhân nghĩa tồn tại, quân địch sẽ không dám xâm lược”
Theo Nguyễn Trãi, việc quan trọng nhất là bảo vệ dân lành khỏi bạo lực, để họ có cuộc sống an yên và hạnh phúc. Ông nhấn mạnh rằng việc đầu tiên để thống trị là bảo vệ nhân dân. Cuộc chiến chống lại xâm lược là một hành động nhân nghĩa, phù hợp với nguyên tắc chính nghĩa. Sau đó, tác giả phản ánh về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt, một sự thật đã được củng cố qua lịch sử:
“Như nước Đại Việt ta từ xưa
Luôn tự hào về văn hiến lâu đời
Núi sông bờ cõi chia cách
Phong tục Bắc Nam khác biệt”
Ở phần 2 – cảm hứng căm thù kẻ thù xâm lược, Nguyễn Trãi thể hiện lòng căm phẫn sục sôi, viết nên một bản tuyên ngôn đanh thép với một trình tự tư duy logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị tàn ác, tố cáo mạnh mẽ những hành động tàn bạo. Qua việc phân tích sự cay đắng của việc “phù Trần diệt Hồ”, tác giả khám phá những tội ác phi nhân, diệt chủng:
“Nướng dân nghèo trên ngọn lửa hung dữ
Vùi con người vào dưới cơn ác tai họa”
Tội ác của chúng được ghi chép bằng vô số, không giới hạn:
“Độc ác tràn lan, trúc Nam Sơn không đủ chứa hết tội lỗi
Bẩn thỉu tràn ngập, nước Đông Hải không thể loại trừ hết mùi tanh”
Ở phần 3, với nguồn cảm hứng phong phú, Nguyễn Trãi đã mô tả lại quá trình gian khổ, vất vả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính những gian nan ban đầu đã dẫn đến chiến thắng vĩ đại sau này. Cảm hứng anh hùng lan tỏa khắp nơi. Những chiến công hào hùng được diễn tả sâu sắc. Nhạc điệu trong văn vẻ phấn khích, hùng tráng như sóng biển:
“Gươm mài đá, đá núi cũng phải mòn
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không nguy cơ
Đánh hai trận, chim muông tan tác”
Và ở phần 4 – phần kết thúc, Nguyễn Trãi không giấu được niềm vui chung của dân tộc, truyền đạt lời tuyên bố trọng đại của Lê Lợi về độc lập lâu dài:
“Từ đây, xã tắc vững bền
Giang sơn từ đây thay đổi
Chí khôn bĩ rồi lại thăng
Mặt trời mọc rồi lại sáng”
Từ đó, chúng ta thấy được tương lai huy hoàng, rạng rỡ của đất nước. Hiện thực hiện nay là kết quả của những nỗ lực đau thương trong quá khứ “Muôn thuở thái bình vững vàng”. Lời kết thúc “Xa gần bá đạo/ Ai ai cũng hiểu” đã chia sẻ niềm vui, niềm tự hào và hy vọng vào ngày mai, vào tương lai của tổ quốc.
Bài cáo đã thành công thể hiện những đặc điểm độc đáo của thể loại. Ngoài ra, sự thay đổi linh hoạt trong cách diễn đạt ở mỗi phần, từ sự cao trào của lòng căm hận, đến sự hào hùng mãnh liệt, và sự mãnh liệt như sóng triều dâng lên trên chủ đề lịch sử - văn học, đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Hiểu biết sâu sắc hơn của Nguyễn Trãi về lịch sử, về truyền thống và văn hóa đã tạo ra tính thuyết phục và sức hút lớn hơn cho tác phẩm.
“Bình Ngô đại cáo” từ khi xuất hiện đã được coi là một tuyên bố độc lập của dân tộc, không chỉ lên án tội ác của quân Minh mà còn khẳng định sự độc lập chủ quyền của dân tộc. Qua nhiều biến cố, giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn còn nguyên vẹn đến ngày nay và Nguyễn Trãi – một nhà quân sự, nhà chính trị tài năng, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi được ghi nhớ trong lòng mỗi người con của dân tộc.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 8
Nguyễn Trãi là một trong những tác giả vĩ đại, tiêu biểu của văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc tác phẩm của Nguyễn Trãi, độc giả sẽ dễ dàng nhận thấy tấm lòng yêu nước, tình yêu thiên nhiên sâu sắc và đặc biệt là tư tưởng thân dân. Có thể nói “Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm thể hiện một cách sâu sắc và đầy đủ tư tưởng đó của Nguyễn Trãi.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt. Sau khi đánh bại quân Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận thỏa hiệp và buộc quân Minh phải rút quân về nước, đất nước ta độc lập, không còn bó shadow của quân thù. Trong tình hình lịch sử đó, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phái viết tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” hay còn gọi là “Đại cáo Bình Ngô” và công bố trước toàn dân vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi, tức là vào đầu năm 1428. Tác phẩm được coi là một tuyên bố độc lập của dân tộc ta.
“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi sáng tác bằng thể loại cáo – một loại văn học lớn có nguồn gốc từ Trung Hoa. Tìm hiểu sâu sắc về thể loại văn học này, ta thấy rằng cáo là thể văn viết bằng chữ Hán, có thể là văn xuôi hoặc văn vần, nhưng phổ biến nhất là văn biền ngẫu. Cáo thường được vua, chúa hoặc lãnh tụ dùng để thông báo rộng rãi một sự kiện hay một vấn đề trọng đại nào đó. “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét những đặc điểm của thể loại văn học này.
Bài cáo được chia thành bốn phần, có cấu trúc mạch lạc, rõ ràng. Phần mở đầu của bài cáo đã nêu lên luận đề chính nghĩa làm cơ sở vững chắc cho bài cáo. Luận đề chính nghĩa đó kết hợp tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Trong phần hai, Nguyễn Trãi đã nêu rõ những tội ác man rợ, dã man của kẻ thù. Đồng thời, ông cũng tái hiện chiến đấu của quân và dân ta một cách chân thực, sâu sắc và rõ ràng. Phần cuối cùng của bài cáo là lời tuyên bố độc lập, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.
Bài cáo để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe bởi những thành công, hấp dẫn về nghệ thuật. Thành công của bài cáo chính là ở việc kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa và hợp lý giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn chương, cùng với giọng điệu linh hoạt, đa dạng.
Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là một trong những kiệt tác của văn học Việt Nam. Đây là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc anh hùng, bất khuất.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 9
Trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”) Nguyễn Trãi có viết: “Dù khác nhau về mạnh yếu nhưng những anh hùng đều có giá trị.”
Từ xưa đến nay, nước và lửa luôn tượng trưng cho sự đối lập trong tự nhiên. Sự đấu tranh giữa họ tạo ra câu thành ngữ “khác nhau như nước với lửa”.
Dù biết rằng nước có thể dập tắt lửa, nhưng khi lửa bùng cháy mạnh mẽ, nước lại không thể kiềm chế được. Đây là những anh hùng vĩ đại đã góp phần bảo vệ Tổ quốc, là những nhà lãnh đạo tài ba trong quân sự.
“Dù khác nhau về mạnh yếu nhưng những anh hùng đều có giá trị.”
Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước.
Từ xưa đến nay, người Việt đã có những anh hùng hào kiệt như Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... họ đã góp phần bảo vệ Tổ quốc, là những nhà lãnh đạo quân sự tài ba.
Ngày nay, chúng ta có Hồ Chủ Tịch, Võ Nguyên Giáp, Tôn Thất Tùng, Trịnh Công Sơn... họ là những anh hùng hào kiệt về nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần làm nên vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam.
Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, chúng ta tự hào về giáo sư Ngô Bảo Châu, người châu Á thứ hai được nhận giải thưởng danh giá về công trình nghiên cứu toán học.
Những người có tài cao chí lớn sẽ làm cho dân tộc vẻ vang. Như Trần Hưng Đạo đã dẫn dắt quân ta đánh bại quân Mông Nguyên, mở ra thời kỳ vinh quang cho Đại Việt. Hoặc Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo dân ta đánh bại Thực Dân Pháp, phát xít Nhật, làm rạng danh đất nước. Và giáo sư Ngô Bảo Châu, với lòng tự hào mang theo hộ chiếu Việt Nam, đã đại diện cho trí tuệ của dân tộc khi đi ra thế giới.
Tuổi trẻ muốn góp phần cho đất nước cần phải trở thành những người có tài cao chí lớn. Điều đó đòi hỏi phải học tập chăm chỉ, nắm bắt những kiến thức mới để đồng hành với thời đại. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đóng góp vào sự phát triển của quê hương, đưa đất nước tiến lên vị thế quốc tế và cùng những cường quốc khác. Và những anh hùng như Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vẫn sáng danh trong truyền thống lịch sử, là nguồn động viên cho thế hệ sau.
Sau 600 năm từ vụ án Lệ Chi Viên, tác phẩm của Nguyễn Trãi vẫn sống mãi và đặc biệt như “Bình Ngô Đại Cáo”. Câu nói “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” vẫn giữ nguyên giá trị đúng đắn, khẳng định tầm quan trọng của anh hùng trong lịch sử dân tộc.
................
Tải File về để xem bài văn Thuyết minh Bình Ngô đại cáo