Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ tổng hợp 15 mẫu văn siêu hay kèm theo 3 gợi ý cách viết chi tiết. Thông qua việc phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng, các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một phong cách văn phù hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức quý báu của bản thân.
Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng đã vẽ lên hình ảnh của cụ Nguyễn Công Trứ một con người tài năng, đầy đặn vừa thể hiện trọn vẹn bản sắc cá nhân, vừa thoả mãn lòng tham của chính mình. Bài thơ đã giúp thể thơ hát hò được thể hiện đúng với cấu trúc, chức năng của nó. Dưới đây là 14 mẫu phân tích Bài ca ngất ngưởng hay nhất mời các bạn tham khảo.
Dàn ý phân tích Bài ca ngất ngưởng
I. Bắt đầu bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng để lại dấu ấn sâu đậm không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh cuộc sống và xã hội một cách sâu sắc
- Bài ca ngất ngưởng là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện tài năng, tinh thần và ý chí cá nhân của Nguyễn Công Trứ
II. Nội dung chính
1. Nguyên cảm hứng
- “Ngất ngưởng”: tình trạng cao vút, không ổn định, lung lay.
⇒ Tư duy, thái độ sống không bị ràng buộc bởi những quy định, vượt xa những gì được xã hội đặt ra cho con người.
⇒ Phong cách sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ. Tác giả có nhận thức rõ về tài năng và bản lĩnh của mình, ngay cả khi tham gia vào cuộc sống cung đình hoặc đã nghỉ hưu.
2. 6 câu đầu bài
- “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: Thái độ tự tin khẳng định mọi sự việc trên đời đều là phận sự của tác giả. ⇒ Tuyên ngôn về chí lập trình của nhà thơ.
- “Ông Hi Văn… vào lồng”: Xem việc nhập thế không chỉ là sự ràng buộc mà còn là cơ hội để thể hiện tài năng.
- Liệt kê những thành tựu tại địa vị quan trọng và tài năng cá nhân:
+ Tài năng: Đạt danh hiệu thủ khoa, Xuất sắc trong quân sự (chiến thắng trận)
⇒ Sự xuất chúng trong nhiều lĩnh vực: văn chương và quân sự
+ Tự hào về vị trí xã hội và thành tựu: Nổi tiếng, Lãnh đạo quân đội, Đại tướng (đánh chiếm Trấn Tây), Đại diện quân vị Thừa Thiên
⇒ Tự tin về bản thân là người có tài năng vượt trội, với danh tiếng và vị thế xa vời toàn diện.
⇒ 6 dòng thơ đầu tiên là lời từ thuật của nhà thơ khi đảm nhận vị trí quan trọng, khẳng định tài năng và lý tưởng tự do độc lập của một người có khả năng xuất sắc
3. 10 dòng tiếp theo
- Sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
+ Điều khiển bò một cách tự do trên lưng ngựa.
+ Ghé thăm chùa với đôi bước nhẹ nhàng theo dõi.
⇒ Sở thích độc đáo, lạ lùng, thậm chí có phần không quan tâm và phiêu lưu
+ Bụt cũng khiến người ta bật cười: thể hiện những hành động khác thường, phản đối những quan điểm của những nhà trí thức phong kiến.
⇒ Bản tính của nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng
- Quan điểm về cuộc sống:
+ “Được mất ... ngọn đông phong”: Tự tin so sánh bản thân với “cao thượng”, tức là sống một cách bình thản tự do, không quan tâm đến sự đánh giá của thế gian
+ “Khi hát… khi cười” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, việc sử dụng từ “khi” lặp đi lặp lại tạo nên không khí vui tươi và tràn đầy niềm vui.
+ “Không thuộc… tục”: không phải là đạo sư, không phải là thần tiên, không bị ràng buộc bởi các quy định xã hội, sống một cách tự do ⇒ sống không giống ai, sống ngất ngưởng
⇒ Quan điểm sống kỳ lạ, độc đáo mang đậm chất cá nhân của tác giả
4. 3 câu cuối cùng
+ “Chẳng khác Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn con đường đạo đức chung”: Sử dụng so sánh, tự hào so sánh bản thân với những nhân vật lịch sử có đóng góp vượt trội như Lý Thường Kiệt, Hàn Thuyên, Phú Thường…
⇒ Khẳng định lòng dũng cảm, tài năng vượt trội như các danh tướng. Tự tin khẳng định bản thân là một người trung thành với lẽ phải.
+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: Đặt ra câu hỏi và đồng thời khẳng định vị trí cao quý trong triều đình về cách sống “phong phú”
⇒ Tuyên bố tự tin về cá tính, mong muốn vượt ra ngoài những quy định đạo đức truyền thống của giai cấp Nho. Với ông, 'ngất ngưởng' phải được chứng minh bằng danh vị và tài năng thực tế
5. Đặc điểm nghệ thuật nổi bật:
- Thành công trong việc áp dụng thể hát
- Tạo ra một phong cách thơ vui nhộn, dí dỏm
- Sử dụng các ví dụ và câu chuyện điển hình
III. Kết luận
- Xác nhận những đặc điểm quan trọng nhất về nội dung và nghệ thuật trong Bài ca ngất ngưởng
- Liên kết giữa việc trình bày suy nghĩ cá nhân và nội dung của bài thơ
Phân tích Ca khúc say đắm - Mẫu 1
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) được biết đến là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn đầu của thế kỷ XIX. Văn chương của ông đã để lại dấu ấn sâu đậm, được đánh giá cao về sự uyên bác và tài năng trong việc biểu đạt. Ông sống một cuộc đời đa sắc, từ vai trò nhà nho đến lúc tham gia chiến trận, từ việc làm quan đến những ngày trở thành một nhà thơ tự do. Dù trải qua thăng trầm của số phận, ông luôn giữ vững tinh thần nam tính, công bằng và sống với niềm tin phi thường:
'Mang tiếng vang trên trời đất,
Phải để lại dấu ấn trong lòng núi sông'.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ tỏa sáng với vẻ đẹp độc đáo, thể hiện qua những tác phẩm như bài thơ Nôm lừng danh 'Hàn nho phong vị phủ', và hơn 60 bài thơ điển hình khác. 'Ca khúc say đắm' là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong thơ ca dân tộc. Bài thơ này với 19 câu chữ đầy nhịp điệu, âm nhạc trầm ấm, lúc nhẹ nhàng, lúc tràn đầy hào hứng, khiến người đọc cảm thấy thú vị. Nó được coi là một dạng thơ mang đậm bản sắc dân tộc, có cấu trúc chặt chẽ, văn phong và âm nhạc hài hòa, lôi cuốn.
Sau khi từ chức quan lại vào năm 1848, Nguyễn Công Trứ trở về quê hương sau gần 30 năm phục vụ triều đình. Bài thơ 'Ca khúc say đắm' được ông sáng tác khi đã quay về địa vị quan trí tại quê nhà. Nó là một lời tâm sự về cuộc đời của ông, thể hiện lòng tự hào về tài năng, phẩm chất và thành tựu của mình, phản ánh một cá tính và lối sống tư tưởng tự do, rộng lớn.
'Không ổn' có nghĩa là không vững, không chắc chắn, dễ đổ vỡ, dễ gục ngã (Từ điển Tiếng Việt). Trong bài thơ này, 'không ổn' được hiểu như một cái nhìn đặc biệt, một cách sống khác biệt và không quan tâm đến ý kiến của người khác. Và điều này đã được Nguyễn Công Trứ biến thành một bài ca, một trạng thái tinh thần với tất cả lòng tự hào và sự say mê hiếm có.
Khởi đầu bằng một lời tuyên bố mạnh mẽ, một câu tuyên ngôn của một người nam tính, một người có tài năng. Vô cùng trang trọng và hùng vĩ: 'Toàn bộ vũ trụ đều là sự số phận' — mọi sự trong vũ trụ đều là phận sự của chúng ta. Một lời phủ nhận để khẳng định tâm trạng của một nhà thông thái chân chính. Và không chỉ có một lần? Ông viết rằng: 'Mọi sự trong vũ trụ đều thuộc về số phận của chúng ta' (Nợ tang bồng); 'Công việc trong vũ trụ là nhiệm vụ của chúng ta' (Gánh trung hiếu). Với tinh thần đó, chính vì 'Hi Văn tài bộ đã vào lồng'. Hi Văn là tên gọi của Nguyễn Công Trứ. 'Tài bộ' là tài năng lớn, nhiều tài năng. Từ 'lồng' trong câu thơ có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. 'Vào lồng' có thể nghĩa là vào khuôn phép của vua chúa nơi hẹp hòi, hạn hẹp, không phù hợp với sự đa tài của ông (Lê Trí Viễn). Có người giải thích rằng: 'lồng' là trời đất, vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: 'Đã có tiếng vang trong trời đất', hoặc 'Không có vinh quang nào trên thế gian' (thế gian: cuộc sống, thế tục). Cách hiểu thứ hai có vẻ hợp lý hơn, bởi chỉ khi vào lồng của vũ trụ, ông mới có ý chí chiến đấu, như ông đã nói:
'Tinh thần làm người nam tính đầy quyết tâm,
Dành ra sức mạnh chiến đấu trong bốn phương'.
Sau khi đã tự xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tinh thần của mình, 'tài bộ' của mình, lòng dũng cảm của mình rộng lớn như vũ trụ.
Hi Văn là một người có thực lực và danh tiếng. Trong học vấn và thi cử, ông luôn dám thách thức mọi người: 'Nợ trường này, ta phải thanh toán'. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ vị trí Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Danh tiếng lẫy lừng 'Trở thành người anh hùng không phải là chuyện dễ dàng' ('Tinh thần anh hùng'). Đứng trên đỉnh cao của danh vọng nhờ vào sự kết hợp của văn võ toàn diện, vì đã 'thành thạo chiến thuật', và chính lúc đó, Hi Văn mới trở thành 'người không ổn', một con người vượt trội hơn thế hệ và hơn mọi người. Câu thơ với cách chia nhịp (3-3-4-3-3-2), ba lần lặp lại từ 'khi' đã tạo nên một giọng điệu hùng hồn, thể hiện một tâm hồn phi thường, một ý chí mạnh mẽ vô cùng:
'Là Thủ khoa! là Tham tán ! là Tổng đốc Đông,
Am hiểu chiến thuật! đã trở thành người vượt trội'.
Bốn dòng thơ tiếp theo (khổ giữa) mở rộng ý thơ, tác giả tự hào, khẳng định bản thân là một con người, một kẻ sĩ có uyên bác trong kinh bang tế thế. Trong thời loạn lạc, ông dũng cảm chiến đấu trên chiến trường, giữ trọng trách trước ba quân: 'Chiến binh lạc hồng Đại tướng'. Trong thời bình, ông giúp đất nước, giúp vua, làm 'Người đứng đầu Thừa Thiên'. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã đạt đến đỉnh cao của danh vọng. Ông từng nói: 'Khi làm Đại tướng, ta không tự hào về vị thế, khi làm lính thú, ta cũng không xấu hổ về vị trí đó'. Sau 30 năm phục vụ, Nguyễn Công Trứ trở về quê hương làm người chí sĩ, năm ấy, ông đã 70 tuổi (1848):
'Quê hương giải phóng sau niên kiện,
Bò vàng thay ngựa, người ngất ngưởng'.
Trở lại cuộc sống hàng ngày, cụ Thượng Trứ đã thực hiện một cách đảo lộn, như một cách để chế giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Người đại quan ngày xưa 'ngựa ngựa xe xe' bây giờ chỉ còn việc cưỡi bò vàng và cho bò đeo đồ trang trí của ngựa. Cả người lẫn bò vàng đều trở nên ngất ngưởng. Như một thách thức với số phận. Đến ngày nay, dân gian vẫn truyền tụng và cười nhạo bài thơ nói về chiếc mo cau của ông Hi Văn ngày xưa:
'Xuống ngựa, lên xe, tưởng là nhàn nhã.
Thăng quan giả chức với giả danh.
Dạo quanh đồng bằng trên chiếc xe bò cái,
Có sẵn tấm mo che miệng của thế gian'.
Tám dòng thơ tiếp theo trong hai khổ dôi miêu tả một cách sống đặc biệt. Xưa kia là một vị đại hiền, một danh tướng - 'tay kiếm cung' - nhưng bây giờ sống một cuộc sống bình dị, hiền lành 'như Phật tử từ bi'. Dạo chơi cảnh chùa, tham quan những danh lam thắng cảnh 'Kìa núi kia che phủ mây trắng', ông đi cùng với 'một đôi dì', những người hầu xinh đẹp với 'bước đi nhẹ nhàng như tiên'...
'Kìa núi kia che phủ mây trắng,
Tay kiếm cung nhưng sống như Phật tử từ bi.
Chân tiên đi nhẹ nhàng nhưng theo sau một đôi dì.
Bụt cũng cười nhạo ông người sống đặc biệt...'
Ông đã sống một cách chân thành và chơi cũng chân thành. 'Bụt cũng cười nhạo ông sống đặc biệt' là một bốn dòng thơ độc đáo. Câu thơ tự trào gợi ra một chút vui vẻ. Bụt cười, hay thế gian cười? Hay ông Hi Văn cười chính mình? Khi đã thoát khỏi vòng xoay danh lợi, thì việc 'thắng, thua' là điều không quan trọng, giống như câu chuyện 'Thất mã tái ông' thôi, không cần quan tâm! Những lời khen, chỉ trích của thế gian, xin bỏ ngoài tai, giống như cơn gió đông (xuân) thoáng qua. Chỉ có lòng can đảm, tự tin vào tài năng và đức độ của mình mới có thể có thái độ phủ định như vậy, dám sống trên hết mọi thứ. Chỉ khi biết rằng Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào tạo tại cửa Khổng sân Trình, một quan lớn trong triều đình Nguyễn, ta mới hiểu được một phần nào cá tính và cách cư xử đặc biệt, rất thoải mái, tràn đầy tình yêu đời, tài năng và tính cách hiếm có của ông. Không màng đến việc 'thắng, thua', bỏ qua mọi lời đánh giá từ thế gian, ông đã sống một cách thanh thản, tự nhiên, vô cùng thoải mái, vui vẻ. Mặc dù ngất ngưởng nhưng trong sạch, cao quý. Đây là hai dòng thơ xuất sắc trong 'Bài ca ngất ngưởng':
'Khi hát / khi uống / khi vui / khi phiêu /
Không cần Phật / không cần Tiên / không bị ràng buộc bởi chuyện thế tục'.
Cách chia nhịp 2, nghệ thuật hòa âm (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng lặp (khi... không..,) đã tạo ra cho dòng thơ một giai điệu phong phú, thể hiện một thái độ sống ung dung, yêu đời, ham sống, cao quý không bị ràng buộc bởi những thứ vụn vặt. Khi đọc to và hát lên, khi nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm nhận được vẻ đẹp của thơ, âm nhạc hoà quyện trong những vần thơ tuyệt vời như thế! Thật là ngất ngưởng và tài hoa, tài nghệ phong phú.
Bài hát chỉ có 3 câu, với câu cuối gọi là câu keo, chỉ có 6 từ. Viết theo quy phép đúng như trong 'Tuyển tập thơ ca trù' - NXB Văn học 1987:
'Chẳng Trái, Nhạc vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua, tôi tuyên bố đạo sơ chung,
Trong triều ai cũng không ngất ngưởng như ông!'
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần trung thành, trọn vẹn 'nghĩa vua tôi'. Ông đã viết trong bài 'Nợ tang bồng':
'Chí tang bồng hứa với giang sơn,
Đường trung hiếu, chữ quân thân đều đựng vác'.
Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có gì kém cỏi so với Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những danh nhân của đời Hán, đời Tống tại Trung Quốc. So sánh giữa hai phương diện gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát một cách hùng hồn với tiếng 'ông': 'Trong triều ai cũng không ngất ngưởng như ông!'. Bản ngã đặc biệt của nhà thơ được thể hiện mạnh mẽ.
Với Nguyễn Công Trứ, cần phải có thực tài, thực danh, phải 'vẹn đạo vua tôi' mới trở thành 'tay ngất ngưởng', 'ông ngất ngưởng' được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không phô trương, không bị vướng bận bị rối, cũng không trốn tránh. Ngất ngưởng thế mới đẳng cấp.
Cái tên, đề tài 'Bài ca ngất ngưởng' của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách thể hiện bản thân của nhà thơ cũng rất đặc biệt. Một thế kỷ sau, nhà thơ Tản Đà cũng sáng tạo nhiều bài thơ hát nói, thơ tự do đậm chất 'ngông'. Một phần ngất ngưởng về danh tiếng, một phần kiêu căng về cuộc sống và lãng mạn.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán tạo nên sự trang nghiêm, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc hòa quyện hài hòa, cuốn hút, lôi cuốn.
Trong truyền thống văn học cổ điển Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà là những nhà thơ lớn để lại nhiều bài thơ nói đỉnh cao. Nguyễn Công Trứ đã tạo ra một giọng điệu mạnh mẽ, hùng hồn, chất tài tử kết hợp với tinh thần anh hùng, nợ tang bồng, tinh thần nam tính. Đó là phong cách nghệ thuật, là cách ứng xử, là bản sắc của thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. 'Bài ca ngất ngưởng' thực sự là 'Bài ca từ tận tâm' của ông Hi Văn mang lại nhiều điều thú vị cho chúng ta.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 2
Nguyễn Công Trứ không chỉ là một quan lại mà còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của văn học Việt Nam tổng quát và văn học trung đại cụ thể. Ông đã sáng tác một lượng lớn, đặc biệt là thơ văn bằng chữ Nôm, và thông qua những tác phẩm đó, phong cách độc đáo của ông được hiển hiện rõ. Có thể nói, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” - tác phẩm được coi là tổng kết về cuộc đời của Nguyễn Công Trứ - là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông.
Khi đọc bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ, người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy “ngất ngưởng” là cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm, nó được sử dụng bốn lần trong bài thơ. Vậy từ “ngất ngưởng” trong bài thơ nên hiểu như thế nào? Như chúng ta đã biết, “ngất ngưởng” thường được hiểu là cao vượt, cao hơn người khác, vật khác và luôn trong trạng thái lung lay nhưng không thể đổ. Tuy nhiên, trong tác phẩm, “ngất ngưởng” không mang ý nghĩa đó mà nó được dùng với một cách hiểu khác, đó là lối sống, thái độ sống của tác giả. Và theo cách hiểu đó, chúng ta sẽ thấy bài thơ rất đầy màu sắc và hấp dẫn.
Trong sáu câu thơ đầu tiên của bài thơ, tác giả đã rõ ràng thể hiện sự ngất ngưởng khi ở vị trí quan trọng. Đầu tiên, sự ngất ngưởng khi làm quan được biểu đạt qua sự khẳng định vai trò, vị trí của mình trong vũ trụ:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Dù chỉ là hai câu thơ, tác giả đã truyền đạt được quan điểm về vị trí của mình. Ông coi mọi việc trong vũ trụ này, từ trời đến đất, đều là trách nhiệm của mình, đồng thời, ông xem việc đảm nhận trách nhiệm là cách để thể hiện tài năng và trí tuệ của mình. Từ sự khẳng định đó, ông đã thể hiện, đã khoe khoang tài năng, danh vị của mình:
Khi là Thủ khoa, khi Tham tán, khi là Tổng đốc Đông
Có thao lược, tay đã nên ngất ngưởng
Khi ở bình Tây làm đại tướng
Có lúc về Phủ doãn Thừa Thiên.
Trong bốn câu thơ, tác giả đã dùng nhiều từ Hán Việt như Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông,... và bút pháp liệt kê, điển ngữ, từ đó thể hiện rõ tài năng và danh vị của mình. Nguyễn Công Trứ là người văn võ song toàn, giữ nhiều chức vị quan trọng trong cuộc đời làm quan. Trong sáu câu thơ đầu, ông đã nói về tài năng, vị danh của mình với một thái độ trang trọng, tự hào.
Nguyễn Công Trứ không chỉ ngất ngưởng khi làm quan mà còn tiếp tục ngất ngưởng trong lối sống sau khi về hưu, điều này được thể hiện rõ trong mười ba câu còn lại của bài thơ. Lối sống ngất ngưởng của ông được thể hiện qua cách sống khác biệt, khác thường, trái với thế tục.
Giải tổ chi niên ở Đô môn
Bò vàng đeo đạc ngựa, ngẩng cao đầu
Hai câu thơ đã gợi lên hình ảnh của tác giả ngồi trên lưng con bò vàng, mà con bò này được trang sức bằng đạc ngựa - một dáng vẻ khác thường, như thể muốn khiêu khích, trêu chọc. Và dù thả hồn vào mây trắng, núi cao, dáng vẻ ngất ngưởng của tác giả vẫn không thay đổi:
Núi kia mây trắng phủ phục
Dùng kiếm mà trở thành tâm hồn nhân từ bi
Cô tiên bước chân trên đỉnh núi kia
Bụt cũng phải mỉm cười trước sự ngất ngưởng của ông
Trong văn học, chắc chưa có ai đi thăm cảnh chùa giống như Nguyễn Công Trứ. Đi thăm chùa - nơi cao quý, tinh tế nhưng lại mang theo một cô hầu. Dáng vẻ và lối sống của ông khiến Bụt cũng phải gật đầu, phải bật cười.
Trong lối sống, Nguyễn Công Trứ không quan tâm nhiều đến việc đạt được hay mất đi, được khen ngợi hay bị phê phán. Đối với ông, điều này không quan trọng.
Được hay mất đều như nhau
Khen chê như là gió đông thoảng qua
Ngoài ra, trong cuộc sống, Nguyễn Công Trứ thể hiện sự tự do, thoải mái, làm theo ý muốn mà không bị ràng buộc bởi thói quen hay tập tục.
Khi uống rượu, khi ca hát, khi cười, khi vui chơi
Không nên tôn thờ Phật, không nên tín thần tiên, không bị bận tâm bởi những vấn đề xã hội
Điều này cho thấy, sau khi về hưu, Nguyễn Công Trứ vẫn giữ phong cách sống riêng biệt. Dù vậy, ông vẫn giữ được tính cách trung thành của mình. Và bằng những câu thơ cuối cùng của bài viết, ông tự tổng kết cuộc đời mình một cách thẳng thắn và hài lòng.
Trái cả, Âm dương đều góp phần tạo nên vẻ đẹp của thành phố Hàn, Phú
Tôi tôn trọng tất cả các nguyên tắc cơ bản
Trong triều vua, không ai có phong độ cao như tôi!
Tóm lại, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ với cách biểu đạt quyết liệt, ngôn từ rõ ràng đã một lần nữa thể hiện cá tính tốt đẹp của tác giả - một con người có tài năng và lý tưởng, sống hòa hợp giữa lòng trung thành với xã hội và bản thân.
Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 3
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) sinh ra trong một gia đình theo truyền thống Nho giáo, xuất thân từ làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhìn vào cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, ta có thể nhận thấy rõ hai đặc điểm quan trọng nhất của ông: lòng trung hiếu đối với quân thần và ý thức sâu sắc về tài đức của mình. Điều đáng trân trọng là ông đã sử dụng tài năng và đạo đức của mình để phục vụ đất nước và nhân dân ở nhiều lĩnh vực khác nhau như văn hóa, kinh tế và quân sự, tạo nên một sự nghiệp và danh tiếng vững chắc. Chí hướng và tình yêu đối với công việc của ông là điều hiếm có thể sánh kịp. Tuy nhiên, con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ không phải lúc nào cũng suôn sẻ, bởi tính cách mạnh mẽ và phong cách ngất ngưởng của ông vượt ra ngoài ranh giới của triết học cổ truyền.
Một điều bất ngờ thú vị về ông là sự kết hợp giữa kỹ năng chính trị và văn chương, cùng với tâm hồn nghệ sĩ và phong cách tinh thần của một người tài tử phong lưu, biết cách sống và dám sống. Sau khi dành trọn tuổi thanh xuân để phục vụ đất nước và nhân dân, Nguyễn Công Trứ thường thưởng cho bản thân những niềm vui nhẹ nhàng và thanh nhã, như việc tham gia vào các buổi văn nghệ truyền thống, hay đơn giản là thưởng thức rượu vang ngọt ngào trong không gian yên bình.
Bài thơ 'Bài ca ngất ngưởng' có thể được coi là một tóm tắt ngắn gọn về cuộc đời và tính cách của Nguyễn Công Trứ, tướng công xuất thân từ Uy Viễn. Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ thể hiện thái độ kiên quyết, một lối sống chân thực, dám đối diện với cuộc sống và khẳng định bản lĩnh cá nhân vượt ra khỏi ranh giới truyền thống. Cảm xúc phóng túng được tác giả biểu đạt qua hình thức tự do của ca trù, kết hợp giữa thơ và nhạc:
Không phụ thuộc vào vận mệnh, không cảm thấy chịu ảnh hưởng của tôn giáo hay thần thánh, không bị gò bó bởi những quy định xã hội
Không phân biệt giàu nghèo, danh tiếng hay vị trí xã hội
Khi tụ tập, khi vui chơi, khi thư giãn, khi gặp gỡ bạn bè,
Không cần phải tôn thờ Phật, không cần phải tin vào thần linh, không bị ràng buộc bởi những quy tắc xã hội.
Không quan tâm đến thành công hay thất bại, không để ý đến sự khen ngợi hoặc chỉ trích của người khác.
Tinh thần của bài thơ thể hiện một thái độ ngất ngưởng. Thái độ này không chỉ được thể hiện qua tựa đề của bài thơ mà còn qua việc lặp lại từ ngất ngưởng bốn lần, tạo ra một yếu tố lặp lại có chủ đích, giúp nhấn mạnh ý nghĩa trên và mở ra ý nghĩa dưới.
Trong từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2003, từ ngất ngưởng đồng nghĩa với ngất nghểu, chỉ việc mất vững trên cao, lảo đảo như sắp ngã. Trong bài hát ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ không chỉ miêu tả hành động này mà còn thể hiện một thái độ, một triết lý sống đặc biệt. Để có thể ngất ngưởng như ông, cần phải có lòng tin tuyệt đối vào bản thân và biết phớt lờ sự mất mát, lờ đi lời khen chê của thế gian. Cách ông đối xử với các vị trí mà ông đã từng có, cũng như cách ông ứng xử, cho thấy ông thực sự là một người ngất ngưởng đích thực.
Phong cách ngất ngưởng đặc biệt của Nguyễn Công Trứ không chỉ xuất hiện khi ông còn làm quan, mà còn được thể hiện rõ ràng hơn sau khi ông rời khỏi đời sống triều đình. Vì không thể thể hiện thái độ này trước các vị vua của triều đình nhà Nguyễn.
Bài thơ mở đầu với câu: Vũ trụ nội, mạc phi phận sự, nghĩa là mọi sự trong vũ trụ đều liên quan đến chúng ta. Cách diễn đạt phủ định nhưng thực ra là khẳng định này thể hiện tâm trạng cao quý của một người theo triết lý Nho.
Tác giả tự đặt mình vào vị trí của vũ trụ nhưng sau đó lại tự nhận mình khiêm tốn: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Ý này thể hiện sự khiêm nhường của tác giả.
Trong thời gian làm quan, ông coi mình như đã vào lồng, tức là tuân thủ các quy tắc nghiêm ngặt, tù túng của Tam cương, Ngũ thường. Mặc dù ông biết điều này là mất tự do và trái với tinh thần tự do của mình, nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động trong triều chính để thể hiện tài năng và ước mơ của mình.
Cách xưng hô trong bài thơ có điểm độc đáo. Ban đầu, đọc giả có thể nghĩ rằng tác giả không phải là Nguyễn Công Trứ vì sử dụng các đại từ ngôi thứ ba (ông, tay) thay vì đại từ ngôi thứ nhất (tôi, ta). Qua đó, nhà thơ đã chứng tỏ rằng bản thân là một giá trị tự nhiên trong cuộc sống, không thể phủ nhận.
Nguyễn Công Trứ vừa chỉ đến vai trò của mình trong vũ trụ ở câu đầu tiên thì ngay câu sau đã tự trách mình đã hạn chế tài năng của mình: Tuy vậy, ông không che giấu niềm vui, tự hào khi nhắc đến những thành tựu trong cuộc đời, dù mỗi sự kiện chỉ được đề cập qua một cách nhẹ nhàng, không quan trọng:
Khi đỗ Thủ khoa, khi làm Tham tán, khi làm Tổng đốc Đông…
Lúc bình Tây, làm đại tướng,
Có lúc về Phủ doãn Thừa Thiên.
Theo như tác giả kể trong bài thơ, ông không chỉ làm quan mà còn làm quan lớn, không chỉ trải qua sự giáng chức như trong thực tế mà còn luôn luôn tiến lên. Năm 1819, ông đỗ Thủ khoa tại kỳ thi Hương; năm 1833 được bổ nhiệm làm Tham tán quân vụ; năm 1835 trở thành Tổng đốc của hai tỉnh Hải Dương và Quảng Yên; năm 1841 thăng chức Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở khu vực Tây Nam Bộ; năm 1848 chính thức được bổ nhiệm làm Phủ doãn Thừa Thiên. Con đường sự nghiệp mở rộng và phồn thịnh cho đến khi ông được vua cho phép nghỉ hưu.
Khi nhắc đến những sự kiện lớn trong cuộc đời mình nhưng giọng kể của ông nghe như đùa giỡn, không đặt quá nhiều tâm trí vào đó. Đỗ Thủ khoa (đỗ đầu trong kỳ thi Hương tại trường Nghệ An), làm Tham tán quân sự…, những vị trí đó có vẻ quan trọng, nhưng làm đến Tổng đốc Hải An (bao gồm Hải Dương và Quảng Yên), một vị trí lãnh đạo trong nhiều tỉnh, hay nhận chức đại tướng bình Tây (ở miền Tây Nam của nước), ông chỉ đơn giản gọi là khi làm Tổng đốc Đông và đại tướng bình Tây. Thực sự, Nguyễn Công Trứ không đặt quá nhiều tâm trí vào những vị trí đó. Ông coi những vị trí ấy là phận sự của một người đàn ông ở trong vũ trụ, làm việc một khi đã bắt đầu, ông luôn cống hiến hết mình. Nguyễn Công Trứ từng nói: Làm Tổng đốc, tôi không coi là danh vọng; làm lính, tôi cũng không coi là sỉ nhục. Câu tổng kết sự nghiệp: Có khả năng làm việc tỉ mỉ, ông coi trọng công việc hơn là vinh quang, dù là Tổng đốc, dù là đại tướng, ông cũng coi nhẹ tình thế, không coi quá trọng.
Đó là một biểu hiện đầu tiên của thái độ ngất ngưởng.
Tiếp theo là một hành động ngất ngưởng chưa từng thấy: Thông thường, những quan lại giàu có thường đi cưỡi ngựa, nhưng Nguyễn Công Trứ lại chọn cưỡi một con bò vàng và thậm chí còn cho bò vàng đeo đồ cưỡi ngựa:
Bò vàng đeo đồ cưỡi ngựa ngất ngưởng.
Mọi người nói rằng ông kiêu căng, kỳ quặc. Có người cho rằng ông tự cao và đặt mình trên đời. Nhưng thực tế có thể còn hơn thế: việc cho bò vàng đeo đồ cưỡi ngựa cũng là một cách để khoe khoang. Hơn nữa, hành động này diễn ra ngay sau khi ông nghỉ hưu. Khi đề cập đến thời điểm cụ thể: sau khi Đô môn giải tổ chi niên (tức là cởi dây đeo ấn), ông lại cho bò vàng của mình cưỡi và đeo đồ cưỡi ngựa để nó cũng có cảm giác ngất ngưởng như ông. Nếu ai suy luận điều này, có lẽ họ sẽ nghĩ rằng hành vi của Nguyễn Công Trứ là táo bạo, vi phạm quy phạm. Đó là biểu hiện thứ hai của thái độ ngất ngưởng.
Biểu hiện thứ ba là Nguyễn Công Trứ còn ngất ngưởng cả với Bụt:
Trên đỉnh núi kia, mây trắng phủ phục,
Ấy là tay kiếm cung biến thành hình từ bi.
Cùng với đôi dì gót sen,
Nguyễn Công Trứ cười nhạo ông ngất ngưởng.
Khi lên thăm chùa trên núi mây trắng phủ, ông tự cười nhạo bản thân mình là tay kiếm cung nhưng lại biến thành hình dạng từ bi. Thực ra, đó chỉ là vẻ bề ngoài, vì ông còn có một đoàn gót sen 'tiên nữ' đồng hành, là các cô gái đào. Việc này không chỉ không phải là từ bi mà còn thiếu tôn trọng. Tuy nhiên, ông vẫn tự nhiên, khiến Bụt không chau mày quở trách mà còn cảm thấy ngạc nhiên trước tinh thần rộng lượng của ông.
Khi đến chùa, ông không thực hiện lễ Phật mà tổ chức một bữa tiệc hát hò, có cả các cô gái đào, nhạc đàn, và trống. Ông thưởng thức một bữa tiệc ồn ào với âm nhạc và cảm thấy mình đã thoát khỏi những ràng buộc của cuộc sống, tâm hồn nhẹ nhàng bay bổng giữa chín tầng mây, hít thở không khí trong lành của gió xuân:
Thảnh thơi trong vẻ dương dương của người thượng,
Ca tụng tự do trong làn gió đông.
Hát hò, uống rượu, đốt hương, tu hành,
Không liên quan đến Phật, Tiên, hay các vấn đề vật chất.
Tính cách cao quý của Nguyễn Công Trứ được thể hiện một cách hoàn hảo trong bữa tiệc tại chùa. Bây giờ, mọi thứ trong cuộc sống - thành công, thất bại, lời khen ngợi, lời phê phán... ông đều coi nhẹ như cỏ rác. Tâm hồn ông bay bổng giữa không trung trong lành, cao cả. Lời thơ bay cao với cảm xúc: Thảnh thơi/trong vẻ/dương dương/người thượng, Ca tụng/tự do/trong làn/gió đông.
Tâm hồn của Nguyễn Công Trứ vượt lên trên cao, trong âm nhạc phô trương của giọng ca và nhịp đập của nhạc cụ. Câu thơ: Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng không chỉ liệt kê mà còn diễn đạt sắc thái cảm xúc rõ ràng, mô tả tư thế thoải mái của Uy Viễn tướng công trong một không gian giải trí vô tận. Mặc dù buổi tiệc diễn ra ngay trước cửa Phật và có sự tham gia của các đại nữ tử, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn cảm thấy tinh khiết, cao quý: Không Phật, không Tiên / không vướng vào thế tục.
Đây là phần trong bài thơ nổi bật và đáng chú ý nhất. Nếu hai câu trước kéo dài với nhịp điệu nhẹ nhàng, thanh thoát như một trái tim không còn mảnh vụn bụi bặm, thì hai câu sau là nhịp hát, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu mừng, sau đó cảm thấy dồn dập hơn và kết thúc với một từ thể hiện sự thanh trừng {tục). Kết thúc câu thơ cũng như một cú đập mạnh vào chiếc trống để tự kiêu hãnh, tự hào, tự khẳng định tài năng và tinh thần của mình, phẩm vị của mình.
Nguyễn Công Trứ tự phụ bản thân mình, coi mình bằng tầm với những nhân vật lỗi lạc trong lịch sử (Trái Tuân thời Hán và ba người thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những danh tướng có sự nghiệp rạng rỡ). Cấu trúc câu: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú làm sáng tỏ thái độ đó. Những dòng thơ này cũng tiết lộ tính cách và tâm hồn kiêu căng của Uy Viễn tướng công, giúp người đọc hiểu được phần nào thái độ ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng của ông.
Kết thúc bài thơ với sự phóng khoáng, bay bổng này, Nguyễn Công Trứ không quên nhắc lại điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung, mặc dù câu này chỉ được đặt giữa một câu tự đánh giá rất cao về bản thân và một câu như muốn thách thức với cả triều đình nhà Nguyễn:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Tuy tôn trọng ý thích cá nhân, nhưng Nguyễn Công Trứ không lạc vào tư duy hư vô. Ông vẫn là một người theo triết học Nho, tôn trọng đạo lý, có tinh thần hành đạo tích cực và luôn theo đuổi phương châm: 'Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung'. Ông sống và làm việc một cách tự do, đồng thời tận hưởng cuộc sống. Mọi hành động của Nguyễn Công Trứ đều phản ánh tinh thần phóng khoáng, tự do.
Thái độ ngất ngưởng bất cần được thể hiện qua thể loại ca trù với một bản nhạc hoàn hảo: ngắn, dài tùy ý, vần liền từng cặp, thanh bằng, thanh trắc đều đều, không gò bó. Âm nhạc phản ánh tâm trạng của nhà thơ: từ tiếu tức đến tự hào, từ sảng khoái đến trầm ngâm. Lối viết thông tục đã tạo ra vẻ đẹp sống động đặc biệt cho bài thơ.
Giọng điệu của Bài ca ngất ngưởng phản ánh tính cách độc đáo của tác giả: tự hào đến mức tự phụ, thậm chí là ồn ào. Nguyễn Công Trứ không che giấu những thành tích lớn của mình, mà coi như điều bình thường, nhưng lại đặc biệt trân trọng những trò ngông nghênh.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 4
Mỗi con người mang một tính cách riêng, và mỗi nhà văn đều có phong cách của riêng mình. Nhưng có những tính cách đặc biệt khiến người ta nhớ mãi. Và Nguyễn Công Trứ chính là một trong số đó, với tính cách mạnh mẽ và 'ngất ngưởng'. Đặc tính đó khiến ông trở nên đặc biệt và được nhớ đến nhiều hơn. Điều này được thể hiện rõ trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng.
Bài ca ngất ngưởng là như một cuộc tường thuật về cuộc sống, tài năng và tính cách của Nguyễn Công Trứ. Ông là một tài năng vĩ đại và có một tính cách đặc biệt, vượt ra ngoài giới hạn của thời đại và triết học Nho giáo. Dù sinh ra ở Nghệ An cùng nhiều người tài năng khác, nhưng Nguyễn Công Trứ được nhớ đến nhiều hơn. Có lẽ do tính cách độc đáo của ông, sự ngất ngưởng và chân thật đã làm cho người ta nhớ về ông.
Tác giả bắt đầu bằng năm câu thơ để kể về cuộc đời làm quan của mình. Cuộc đời đó vinh quang nhưng cũng có những thời khắc khó khăn:
' Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên'
Chỉ với năm câu thơ, tác giả đã giới thiệu về cuộc đời làm quan của ông. Nguyễn Công Trứ sử dụng từ 'ngất ngưởng' để nói về bản thân mình, có lẽ đó là một sự biểu hiện của ý định ẩn sau.
Câu thơ đầu tiên của bài thể hiện quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Như một tuyên ngôn về chí trai 'chí làm trai nam bắc đông tây- cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể', câu thơ này cũng là tuyên ngôn về quan niệm sống trong vũ trụ của ông.
' Trong vũ trụ này không có gì không phải là phận sự của ta'
Tác giả muốn chia sẻ quan niệm sống của mình. Đó là mọi sự trong vũ trụ đều là phận sự của chính bản thân chúng ta. Có vẻ như Nguyễn Công Trứ đang ca ngợi tâm hồn cao quý của một nhà nho, một người tôn trọng phẩm chất con người. Điều này thể hiện ý thức cá nhân của ông và lòng nhiệt thành trong cuộc sống của ông.
Sau đó, ông tóm tắt về cuộc đời làm quan của mình:
'Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên'
Đối với Nguyễn Công Trứ, làm quan giống như 'bị nhốt trong lồng', ông xem việc làm quan như một sự hạn chế tự do. Tuy nhiên, với tính cách kiêu hãnh và ý chí mạnh mẽ của mình, ông vẫn vượt qua mọi gò bó để thể hiện tài năng và hoài bão của mình. Qua đó, Nguyễn Công Trứ khẳng định giá trị bản thân mình giữa cuộc sống không thể phủ nhận.
Sau đó là một loạt các vị quan như 'thủ khoa', 'tham tán', 'tổng đốc đông', 'bình tây đại tướng' và cuối cùng là 'phủ doãn thừa thiên'. Có thể nói cuộc đời làm quan của ông đạt đến đỉnh cao khi mọi chức vị đều là quan lớn. Tuy nhiên, ngoài đời thực, ông từng bị giáng chức xuống làm một lính thường. Nhưng ông đã nói rằng: 'Làm tổng đốc tôi không coi là vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục'. Vì vậy, với ông, vị trí công việc không quan trọng, miễn là có thể góp phần cho đất nước.
Cuộc đời làm quan kết thúc và mở ra giai đoạn nghỉ hưu của Nguyễn Công Trứ. Đúng là một bước chuyển mới mẻ khi ông rời bỏ áo quan để về quê. Tuy nhiên, ông không giống như người ta:
'Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bì.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng'
Chia tay cuộc sống quan trường, việc về quê thật sự là một trải nghiệm lớn đối với Nguyễn Công Trứ. Người ta thường trở về với sự hoành tráng của kiệu ngựa và tiệc tùng, nhưng ông thì không như vậy. Ông quay về quê chỉ với một con bò vàng đeo đủng đỉnh. Điều này thực sự chỉ có Nguyễn Công Trứ mới làm được!
Trở về quê hương, nhà thơ tận hưởng tự do với cảnh đẹp của quê nhà và âm nhạc ca trù. Ông thậm chí còn tự cười với bản thân mình về việc từ bi, trong khi lại có hai cô ả đào theo sau. Dù có vẻ không thể hiểu được, nhưng Bụt vẫn không giận dữ mà cười trước tính cách ngạo mạn của vị quan già này.
Những dòng thơ còn lại nói về giai đoạn hưu trí và niềm vui của Nguyễn Công Trứ:
'Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!'
Cuộc sống hưu trí của ông trở nên thoải mái với những niềm vui thanh nhã. Ông không quan tâm đến lời khen chê, chỉ sống theo cách của mình. Hạnh phúc nhất là được là chính mình. Ông thưởng thức cuộc sống hưu trí bằng việc thưởng ngoạn ca trù mà không bị ràng buộc. Từ từ 'khi' được lặp lại nhiều lần để thể hiện sự lặp lại của những niềm vui ấy. Ca trù và rượu nồng giúp ông sống đầy đam mê. Ông sống theo cách của riêng mình, không quan tâm đến tiên, Phật, chỉ sống theo ý mình. Đây là đoạn thơ xuất sắc nhất trong bài, nếu như hai câu trước là về sự thanh thản khi về hưu, thì hai câu sau đầy tiếng nhạc.
Nguyễn Công Trứ tự đặt mình ngang hàng với các nhân vật lỗi lạc ngày xưa:
'Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!'
Trái Tuân ở thời Hán và ba nhân vật ở thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những danh tướng nổi tiếng. Kết thúc bài thơ, ông không quên kể về thành tựu của mình trước khi nghỉ hưu. Đó là lòng hiếu của một vị vua đã hoàn toàn theo đạo. Ông thể hiện bài hát ca ngợi của mình, ông sống và làm việc với tất cả tâm huyết nhưng cũng không quên đến những niềm vui đặc biệt. Niềm vui đó chỉ có Nguyễn Công Trứ mới có thể hiểu, ông cũng thể hiện niềm vui ấy.
Có thể thấy Nguyễn Công Trứ là một cá nhân độc đáo, ông tự nhận thức được tài năng và vị trí của mình. Ông sống mà không quan tâm đến lời nói của người khác về mình. Và thực sự, bài hát ca ngợi đã truyền tải đầy đủ sự ngưỡng mộ của nhà thơ. Bài thơ không chỉ tập trung vào nội dung mà cả cách diễn đạt cũng tạo nên tác phẩm này.
Phân tích về bài hát ca ngợi - Mẫu 5
Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ tài năng, có tài văn võ. Không chỉ thế, ông còn đóng góp đặc biệt cho sự phát triển của thể loại hát nói. Bài thơ “Bài hát ca ngợi” là một trong những tác phẩm như vậy. Được sáng tác vào năm 1848, khi Nguyễn Công Trứ trú ẩn, bài thơ thể hiện quan niệm sống một cách tôn trọng đồng thời định hình phong cách sống “Nhà nho tài tử” đầy tính nhân văn của tác giả.
Bài thơ đã trình bày quan điểm triết lý về cuộc sống tôn trọng. “Tôn trọng” ở đây không chỉ là việc ai đó hoặc cái gì đó nổi bật hơn so với người khác nhưng không vững chắc, dễ bị đổ vỡ, gây ra sự lo lắng và khó chịu. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Công Trứ, “tôn trọng” là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ. ‘Tôn trọng” với ông là lối sống, thái độ sống vượt lên trên những quy tắc, chuẩn mực thông thường, hướng tới cuộc sống tự do, mở cửa mà không thiếu phần lịch lãm. Đó là cách sống khẳng định bản thân, khẳng định tính cách dũng cảm của một con người tài năng.
Trước hết, tác giả thể hiện lối sống “ngất ngưởng” thông qua việc tu hành. Câu thơ đầu tiên khai mạc với quan niệm về trách nhiệm của người hiền là:
“Vũ trụ bên trong bao gồm cả sứ mệnh”.
Đối với Nguyễn Công Trứ, ông coi việc làm nghề là lẽ sống. Sử dụng ngôn từ Hán Việt pha trộn với phong cách trang trọng đã thể hiện quan điểm tích cực về cuộc sống, khẳng định trách nhiệm và sứ mệnh của người hiền. Không chỉ thế, nhà thơ còn thể hiện cái tôi mạnh mẽ:
“Người có tài năng đã bước vào vị trí cao quý”.
Lời tự xưng “có tài năng” trong câu thơ thể hiện cái tôi đầy quyết đoán và phong cách. Trong văn học trung đại, việc đưa cái tôi cá nhân vào thơ đã trở nên hiếm, và tự tin khẳng định tài năng cá nhân qua từ ngữ như “vị trí cao quý” càng hiếm hơn. Hình ảnh ẩn dụ “bước vào vị trí cao quý” thể hiện sự nâng cao, tiến lên và tự do. Không chỉ có nhận thức về tài năng, nhà thơ còn tự tin thể hiện điều đó qua hành động cụ thể:
“Khi là Thủ Khoa, khi là Tham tán, khi là Tổng đốc Đông
Ghi nhận những chiến công đã làm nên tay ngất ngưởng
Khi làm việc ở Bình Tây, cầm quân đánh trận
Có khi trở về Phủ doãn ở Thừa Thiên”.
Sử dụng từ “khi” kết hợp với phong cách liệt kê tạo ra nhịp điệu mạnh mẽ, sôi động. Từng vị trí công việc và những thành tựu lớn được nêu ra đã tạo nên hình ảnh của một con người tài năng và xuất sắc trên nhiều lĩnh vực. Qua sáu câu thơ đầu, nhà thơ tỏ ra có quan niệm sống mạnh mẽ, đầy cá tính, với nền tảng là ý thức, trách nhiệm và tài năng hơn người.
Bên cạnh đó, việc quay về quê hương sau khi nghỉ hưu cũng là một sự kiện quan trọng với ông:
“Sở hữu chiến công hàng năm của mình.
Giải tán đoàn binh ra về ở gia đình”.
Trong khi mọi người khi nghỉ hưu thường chọn ngựa là phương tiện, ông lại chọn bò, không chỉ mang đồ đạc mà còn tỏ ra kiêu hãnh với số phận. Rời bỏ cuộc sống xô bồ, ông thảnh thơi lang thang khắp núi sông, xua tan đi bụi trần. Nhà thơ đã tự vẽ ra bức tranh vui nhộn về bản thân mình:
“Đeo vàng bò đạc ngựa ngất ngưởng
Ấy núi kia mây trắng phau phau
Dùng kiếm cung tạo nên phẩm từ bi
Theo đuổi đỉnh núi cùng một đôi dì
Bụt cũng cười vui ông ngất ngưởng”.
Tất cả đều là những hành động khác biệt, khẳng định phong cách sống độc đáo. Bản lĩnh của Nguyễn Công Trứ được thể hiện ngay trong cách sống của ông:
“Thượng thần thất hạ kiến người nhân
Khen chê thoải mái đón gió đông
Lúc hát, lúc uống, lúc chơi, lúc ngủ
Không tu Phật, không hướng đến tiên, không vướng mắc vào thế tục”.
Hình ảnh “thượng thần”, “gió đông” kết hợp với phép đối “thất hạ-kiến người nhân”, “khen chê-thoải mái” thể hiện thái độ sống bỏ qua mọi đám đông, coi thường khen chê. Phép liệt kê với từ “khi”, “không” tạo ra nhịp điệu linh hoạt. Ông không tu theo Phật, nhưng cũng không vướng vào thế tục. Tóm lại, Nguyễn Công Trứ tiếp tục làm rõ bản lĩnh, cá tính qua hình ảnh một con người không giả dối, nghiêm túc, không rơi vào thế tục.
Cuối cùng, lối sống ngất ngưởng được thể hiện khi ông tổng kết về cuộc đời mình:
“Như Trái, Nhạc cũng đã vào phường Hàn, Phú
Vẹn đạo sơ chung của vua tôi
Trong triều ai có thể ngất ngưởng như ông”.
Nguyễn Công Trứ tự tin hoàn thành hai nhiệm vụ quan trọng nhất của một người hiền là cống hiến tài trí và vẹn đạo sơ chung của vua tôi. Nhà thơ tự cao mình thông qua phép so sánh kiêu căng. Với cổ nhân, ông xứng danh với Trái, Nhạc, Hàn, Phú. Trong triều, ông là duy nhất. Nhà thơ đã thể hiện thái độ tự phụ đầy ngất ngưởng. Nguyễn Công Trứ hiện ra với tư thế kiêu căng, ý thức về bản thân và giá trị của những hành động do mình thực hiện.
Về mặt nghệ thuật, bài thơ rõ ràng là thể loại hát nói, sử dụng nhiều ngôn từ tự xưng, từ Hán Việt mang tính trang trọng cho thể loại này. Bài thơ ca ngợi lối sống ngất ngưởng, tự do giữa một xã hội phong kiến đầy bất công, lễ giáo. “Bài ca ngất ngưởng” cũng thể hiện rõ nét con người Nguyễn Công Trứ. Ông không chỉ tài năng, giàu bản lĩnh mà còn có phong cách, cá tính riêng biệt.
Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” đã trình bày một quan điểm sống mới mẻ, mạnh mẽ. Ở đó, con người không bị ràng buộc bởi những lễ giáo phức tạp, mà được tự do, được sống đúng với bản thân, sống đúng với cá tính của mình. Đó là một quan niệm độc đáo, là sự định hình cho phong cách sống “Nhà Nho tài tử” đầy nhân văn.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 6
Nếu thơ 'ngâm khúc' miêu tả một người cô đơn, đau đớn tìm kiếm những giá trị đã mất thì thể loại 'hát nói' thể hiện một con người tài tử thoát khỏi vòng xoáy cương tỏa, tầm nhìn hẹp, vật chất, danh lợi, tận hưởng khoảnh khắc hiện tại. Bài thơ 'Bài ca ngất ngưởng' của Nguyễn Công Trứ chính là minh chứng rõ ràng cho điều này, nó mang lại cho thể loại 'hát nói' một nội dung phù hợp và sâu sắc, thể hiện tính cá nhân độc đáo của tác giả, phong cách sống độc lập vượt qua những hạn chế lễ giáo và phong kiến dựa trên ý thức về giá trị của bản thân.
Nguyễn Công Trứ, một nhà Nho nghèo từng đỗ Giải nguyên và trải qua nhiều biến cố trong sự nghiệp. Sáng tác của ông chủ yếu bằng chữ Nôm, với sự ưu tiên cho thể loại hát nói, vốn phát triển mạnh mẽ ở làng Cổ Đạm. Các tác phẩm của ông đề cập đến nhiều đề tài khác nhau như tình yêu, tiền bạc, tinh thần làm người, sự sung sướng và hưởng thụ cuộc sống.
'Bài ca ngất ngưởng' là một tác phẩm thể hiện tư tưởng về sự sung sướng và hưởng thụ cuộc sống, được sáng tác vào năm 1848 khi nhà thơ đã nghỉ hưu và tận hưởng cuộc sống tự do. Bài thơ này truyền đạt ý nghĩa về tư thế, tinh thần của một con người vượt lên trên tầm thường, sống một cách tự do và không màng đến ý kiến của người khác.
Sáu câu đầu tiên của bài thơ là lời tường thuật về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả trong chính trị, với những sự kiện quan trọng. Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ chữ Hán thể hiện quan niệm triết học về cuộc sống mà tác giả đã theo đuổi. Với cảm hứng và tự do sáng tạo, hát nói được xây dựng một cách đặc biệt, kết hợp lời Hán và Việt. Một điều đặc biệt là mỗi bài thường có một câu chữ Hán đại diện cho một tư tưởng cụ thể, thường được đặt ở đầu bài.
Tiếp theo, nhà thơ nói về bản thân mình một cách hiếm thấy trong văn học trung đại, khi con người trong thời kỳ đó ít được tôn trọng, và tác giả thường không xuất hiện trực tiếp. Tuy nhiên, ở đây tác giả đã tự tin thể hiện cá nhân của mình.
“Ông Hi Văn, biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ
Vào lồng, nhấc bút, tài năng tỏa sáng
Có lúc về làm quan ở Phủ doãn Thừa Thiên”.
Hi Văn là biệt danh của Nguyễn Công Trứ. 'Tài bộ' ám chỉ tài năng. Ông tự nhận mình là một người 'tài hoa xuất chúng', đã 'vào lồng' tức là cảm thấy bị gò bó bởi việc làm quan trong triều, mất đi sự tự do. Nhà thơ phải là người tự do, có lòng dũng cảm, không thèm quan tâm đến danh vọng và lợi ích, mới có thể tự tin thể hiện bản thân. Ông liệt kê các vị trí học vị và chức quan mà mình từng nắm giữ. Với cấu trúc câu văn và từ ngữ phong phú, ông tạo ra một bức tranh tự hào, tự tin về bản thân một con người tài năng.
Phần còn lại là sự giải thích về lối sống đặc biệt của nhà thơ. Lại xuất hiện một câu thơ chữ Hán: 'Đô môn giải tổ chi niên', thể hiện sự kiện quan trọng trong cuộc đời nhà thơ, khi ông từ bỏ cuộc sống ở kinh đô để về hưu và sống theo cách mà ông mong muốn:
“Ngựa đeo vàng, ông tỏa sáng
Bụt cũng cười, ông vô tư sống”.
Chỉ với bốn câu thơ, từ 'ngất ngưởng' lại xuất hiện hai lần, cho thấy sự yêu thích của nhà thơ với lối sống đó. Trong những câu thơ này, ông sử dụng nghệ thuật đối lập để tạo ra sự khác biệt. Việc đeo vàng cho ngựa, việc có lòng từ bi khi cầm kiếm, và việc đeo dì giày 'trên đỉnh' nhưng vẫn 'tưng tửng' tạo nên sự tương phản rõ rệt trong tính cách của nhà thơ.
Nguyễn Công Trứ là một nhân vật có công với triều đình và nhân dân, đã đóng góp trong việc phát triển nền kinh tế, mở rộng đất đai, và tham gia vào việc chống lại các cuộc nổi dậy. Ông nhận biết được tài năng của mình và chọn cho mình một phong cách sống độc đáo, khác biệt. Trước hết, ông cam kết tận tụy với việc phục vụ vua và dân tộc, dùng tất cả sức lực của mình để phục vụ đất nước, với tâm hồn nam nhi của mình:
“Dù làm trai ở phương Nam, Bắc, Đông hay Tây
Đều dốc hết sức lực phục vụ trong mọi nơi”
Sau khi hoàn thành trách nhiệm của mình đối với đất nước và dân tộc, ông thưởng cho bản thân mình thời gian thư giãn, với quan niệm “Cuộc đời chỉ đáng sống khi ta tận hưởng niềm vui”. Vì vậy, ông không quan tâm đến việc được khen chê, mất mát, mà tập trung vào việc tận hưởng niềm vui cá nhân của mình:
“Dù có mất mát danh vọng, vị thế
Thậm chí bị người khác phê phán
Hai câu thơ tiếp theo với cách diễn đạt linh hoạt, phong phú về âm điệu, nhấn mạnh vào những niềm vui cá nhân của tác giả:
“Khi hát, khi uống rượu, khi chơi bài, khi dạo chơi
Không thờ Phật, không tôn thần, không ràng buộc phong tục”
Điệp từ “khi” và ba từ “không” liên tiếp lặp lại thể hiện tâm hồn tự do, phóng khoáng không vướng bận thế tục, không vướng việc đời, một phong thái ung dung, tự tại. Nguyễn Công Trứ đang tận hưởng những ngày tháng của một kẻ sĩ tài hoa, tài tử: “Ngoài vòng còng kiềng chặt/ Trong niềm vui hà mã chưa chạm đến”
Cuối cùng nhà thơ tổng kết lại cuộc đời mình bằng ba câu thơ với sự khẳng định mạnh mẽ về tài năng và phẩm chất của bản thân:
“Không có Trái, Nhạc, Hàn, Phú
Nhưng lòng vị tôi vẫn trung thành với đạo lý cơ bản
Trong triều chẳng ai ngang ngửa được với tôi”
Nhà thơ đã tự xếp mình ngang hàng với các danh tướng lỗi lạc của đời Hán, đời Tống bên Trung Hoa. Trái, Nhạc, Hàn, Phú là Trái Tuân, Hàn Phi, Hàn Kì, Phú Bật. Ông tự định vị, tự ý thức được tài đức của mình. Ông vẫn thỏa mãn sở thích cá nhân nhưng vẫn trung thành với triết lý cơ bản. Thật đúng như nhận xét của Trần Đình Sử về Nguyễn Công Trứ “Sống trong xã hội mà không bị xã hội kiềm chế, tận hưởng cuộc sống mà vẫn giữ vững đạo đức cơ bản”. Kết thúc bài thơ, tác giả tự hào tự xưng bằng một tiếng “tôi” hùng mạnh. Cái tôi cá nhân được thể hiện mạnh mẽ, tự tin khẳng định rằng trong triều không có ai sánh kịp ông.
“Bài ca ngất ngưởng” sử dụng bút pháp nghệ thuật đặc sắc, thể hiện sự ngông nghênh của tác giả. Các điệp từ, câu cảm thán làm cho ngữ điệu bộc lộ rõ, khẳng định ngạo nghễ. Sử dụng tiếng thô, tiếng lóng tạo ra giọng nói sống động, vừa thanh vừa tục. Bài thơ khắc họa chân dung của Nguyễn Công Trứ, một con người tài ba, lỗi lạc. Nó góp phần làm cho thể thơ hát nói được thể hiện đúng với cấu trúc, chức năng của mình.
Bài thơ đã khắc họa chân dung của cụ Nguyễn Công Trứ một con người tài ba, lỗi lạc vừa làm trọn phận bề tôi, vừa thỏa chí của bản thân mình. Bài thơ đã góp phần làm cho thể thơ hát nói được thể hiện đúng với cấu trúc, chức năng của mình.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 7
Trong văn học, ngoài cái tôi lãng mạn, hào hoa khiến người ta say đắm thì còn một cái tôi ngang tàn, ngạo nghễ cũng không kém phần thu hút. Bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện sự 'ngất ngưởng', phóng khoáng trong cả tài năng, trí tuệ lẫn cách sống của ông. Điều đó được thể hiện rõ nét qua bài thơ.
Bài ca ngất ngưởng được sáng tác năm 1848, Nguyễn Công Trứ từ quan về quê nhà sau hơn 30 năm ông làm quan dưới triều Nguyễn. Trong suốt hơn 30 năm, Nguyễn Công Trứ lúc làm lính thú, lúc cầm quân chinh chiến, khi lại làm đại quan ông đã từng vinh nhục kinh qua, thăng trầm có cả nên có thể nói bài thơ Bài ca ngất ngưởng vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.
Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố vững chắc về quan niệm sống của một đấng làm trai:
'Khắp vũ trụ đều là phận sự ta.'
(Mọi việc trong vũ trụ đều thuộc về ta).
Nguyễn Công Trứ muốn khẳng định cái tự tin của mình, rằng mọi việc trên đời này đều là do ông làm. Đây là việc xác định vị trí của bản thân, là tuyên bố của một người có tài. Nếu như các nhà văn thường chỉ diễn đạt quan điểm của mình về các khía cạnh của cuộc sống và cảm xúc của mình đối với một trong những khía cạnh đó, thì Nguyễn Công Trứ lại hoàn toàn ngược lại, ông cho rằng nam nhi trong thiên hạ không có việc gì là không thể làm được. Người làm trai cũng không thể tránh khỏi những việc liên quan đến cuộc sống của mình trong thế gian, trên trời dưới đất. Để minh chứng cho quan điểm này, Nguyễn Công Trứ đã tường thuật về cuộc đời của mình:
'Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.'
Là một người có kinh nghiệm làm quan trên 30 năm, tác giả kể về những chức vụ mà mình đã từng đảm nhiệm trong suốt những năm tháng phụng sự cho đất nước ấy. Đó là: 'Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông...'. Chắc chắn phải là một người tài năng, thông minh, nhanh trí hơn người, điều sự đều nhanh trí thì Nguyễn Công Trứ mới được giao cho nhiều trọng trách như vậy. Vì vậy mà không một công việc gì tác giả chưa từng trải qua, nên ông đã khẳng định với những đấng nam nhi khác trên cuộc đời này một lập luận chắc chắn như vậy. Những chứng cứ mà nhà thơ nêu ra rất hợp lý, là một ví dụ không thể phủ nhận cho lập luận ban đầu của ông.
Nhưng không chỉ khi làm quan, có chức có quyền thì Nguyễn Công Trứ mới bày tỏ cái tôi ngạo nghễ, phi thường như vậy. Thậm chí trong cuộc sống hàng ngày hoặc khi trở về quê, cái tôi ấy vẫn không mất đi mà còn tự do hơn:
'Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng'
Hình ảnh 'đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng' thể hiện sự châm chọc của tác giả đối với cuộc sống. Ông chưa từng thấy cái tôi của mình nhỏ bé, thấp hèn mà luôn thấy nó to lớn, sánh ngang với cuộc đời, để có thể hiển nhiên mà châm chọc. Đến cả Bụt cũng phải cười trước sự ngất ngưởng của nhà thơ:
'Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.'
Rời bỏ cuộc sống làm quan, trở về với cuộc sống bình thường giản dị nhưng lối sống của Nguyễn Công Trứ lại không bình thường một chút nào. Hình ảnh miêu tả thật hóm hỉnh 'Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi', cũng dễ hiểu thôi bởi nhà thơ trước kia là một người ở chốn quan trường đầy xô bồ, mưu mẹo, nay sống một cuộc sống của người dân bình thường bỗng cảm thấy mình thật 'từ bi'. Ông đi lễ chùa mà cũng phải 'Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì'. Quả thật, Nguyễn Công Trứ là một con người sống vô cùng phóng túng, sống hết mình mà chơi cũng hết mình. Ông luôn tỏ một thái độ hiên ngang, châm chọc trước cuộc đời, khiến cho đến cả Bụt cũng phải cười trước sự 'ngất ngưởng' của riêng ông. Có thể nói, mấy ai đạt được đến cái sự bất cần, ung dung như Nguyễn Công Trứ. Nhà thơ có được cái phong thái này bởi lẽ:
'Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong'
Chốn quan trường giờ đây đã chẳng còn có ý nghĩa đối với tác giả. Bởi ông không còn phải phục tùng bề trên, nghĩa lệnh cho cấp dưới nữa. Mọi khen, chê, thưởng, phạt của cuộc đời làm quan giờ chỉ là hư vô. Nhà thơ đã thoát khỏi cái vòng danh lợi luẩn quẩn, để được thỏa sức vẫy vùng khắp bốn phương. Cuộc sống ấy thật đáng ngưỡng mộ:
'Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.'
Nhà thơ không còn phải vướng bận bất cứ điều gì trên trần thế, ông có thể vui chơi, đàn hát, uống rượu một cuộc sống tự do, tự tại hơn bao giờ hết. Trải qua biết bao nhiêu năm cống hiến và phụng sự cho triều Nguyễn, tác giả cuối cùng cũng được tận hưởng trọn vẹn cuộc sống của riêng mình một cách 'ngất ngưởng' nhất. Thái độ, phong thái này vốn có từ khi nhà thơ bắt đầu làm quan nhưng càng thể hiện rõ nét hơn khi ông về già, về nghỉ hưu.
Ba câu thơ cuối nhà thơ khẳng định rằng 'không có một ai ngất ngưởng bằng mình':
'Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!'
Nguyễn Công Trứ khẳng định với mọi người rằng ông là một vị trung thần tận tâm với triều đình bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật... của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Công lao và những đóng góp của ông là vô cùng nhiều và to lớn. Giọng văn đĩnh đạc, hào hùng như là lời khẳng định đầy tự hào của tác giả về bản thân. Cho nên ông đã tuyên bố: 'Trong triều ai ngất ngưởng như ông!' Câu thơ cuối cùng nói lên nội dung của toàn bài, là sự cắt nghĩa, lí giải về quan niệm làm một đấng nam nhi ở trong trời đất của nhà thơ. Bằng việc khẳng định thái độ sống của mình, ông muốn gửi tới những bậc nam nhi trong thiên hạ rằng phải biết vị trí của mình đối với trời đất, 'trị quốc bình thiên hạ' là phận sự của mỗi người. Lời khẳng định tuy ngắn gọn mà xúc tích, bày tỏ sự chắc chắn trong chí hướng của một người đã từng làm quan.
Toàn bộ bài thơ với nội dung mà nó truyền tải, người đọc chắc chắn sẽ hiểu được cái 'ngất ngưởng' trong thơ của Nguyễn Công Trứ. Bằng tài năng, kinh nghiệm và những đóng góp của mình cho non sông, đất nước, tác giả đã khiến cho mọi người ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi con người, đặc biệt là người con trai đối với cuộc đời. Như vậy, cái tôi 'ngất ngưởng' của nhà thơ không phải là một thái độ tiêu cực mà là sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa, tài tử.
Chỉ qua một bài thơ ngắn mà tác giả đã gửi gắm được toàn bộ lối sống và cái nhìn của mình trước cuộc đời. Thể thơ Nôm độc đáo với nhịp điệu rõ ràng, nhấn mạnh được phong thái hơn người của Nguyễn Công Trứ. Đọc bài thơ, ta thấy thêm cảm phục những người nam nhi đã cống hiến hết mình cho đất nước trong thời kì phong kiến, cũng thấy trân trọng thêm thái độ và tinh thần của tác giả đối với cuộc đời.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 8
Nói về những nhà thơ nổi tiếng nửa đầu thế kỷ XIX không thể không nhắc đến nhà thơ – ông quan thị lang triều Nguyễn: Nguyễn Công Trứ. Đây là một nhân vật lịch sử nổi tiếng, một phần là người đã có công lớn, đề cao chí làm trai và cách sống độc đáo, luôn tự do, phóng túng.
Nguyễn Công Trứ được coi là một trong những thi sĩ xuất sắc nhất thời, ông có công lớn trong việc phát triển thể hát nói thành thể thi ca có khả năng biểu hiện những tình cảm sâu sắc và phức tạp.
Trong số những bài thơ của Nguyễn Công Trứ sáng tác theo thể hát nói, nổi tiếng nhất là bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Đây là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả rời bỏ chốn quan trường về quê nhà sống cuộc đời bình dị. Đây cũng là lúc tính cách kiêu hãnh, ngạo mạn của ông được thể hiện một cách toàn diện nhất. Dù là một nhân vật mạnh mẽ, cá tính, nhưng khi còn làm quan, Nguyễn Công Trứ vẫn phải tuân thủ các quy định của triều đình. Và như lịch sử ghi lại, triều đại Nguyễn vẫn được xem là có những quy định gò bó, thiếu nhân đạo nhất.
Bằng Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ đã trình bày một cách sinh động, độc đáo về bản sắc cuộc đời và bao phủ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận một lối sống khác biệt, đặc trưng của tác giả. Lối sống của ông tương phản với lối sống của xã hội, tương phản với những quan điểm chính thống thời đó.
Trước hết, ngay từ tiêu đề của bài thơ đã thu hút sự chú ý, làm người đọc phải suy nghĩ. Sự độc đáo của Nguyễn Công Trứ có lẽ được thể hiện ngay trong cách ông đặt tiêu đề cho bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Theo cách hiểu thông thường, ngất ngưởng chỉ là cao vút mà không chắc chắn, dễ gãy. Ví dụ: Bình hoa đặt cao vút. Ngoài ra, ngất ngưởng còn có nghĩa là chỉ sự không vững, không ổn định, lúc tiến lên phía trước, lúc rẽ sang phải, lúc rẽ sang trái... Đọc kỹ bài thơ, chúng ta có thể nhận ra rằng tiêu đề của bài thơ này đóng vai trò quan trọng trong việc miêu tả thái độ, tư thế của nhân vật trữ tình - tác giả luôn cố gắng vươn lên trên thói quen, sống giữa đám đông, giữa mọi người mà không giống ai, không bị ảnh hưởng bởi người khác, không quan tâm tới ý kiến của mọi người.
Nguyễn Công Trứ thường nhắc đến tinh thần chí nam nhi theo triết lý nho giáo. Trong bài thơ Chí làm trai, nhà thơ khẳng định:
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể
Ở Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ cũng mở đầu bằng một câu chữ Hán mang tính tuyên ngôn thể hiện tinh thần chí làm trai như đã đề cập: mọi việc trong trời đất đều là phận sự của chúng ta:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Điều này chính là tâm niệm của Nguyễn Công Trứ. Luôn được ông nhắc đến trong nhiều bài thơ suốt cuộc đời, vũ trụ là phận sự của ta (Gánh trung hiếu), vũ trụ là phận sự của ta (Luận kẻ sĩ). Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ, đứng ra làm người, nhất thiết phải có tên tuổi với núi sông, phải làm việc lớn lao, phải ghi vào sử sách. Câu thơ mở đầu thể hiện triết lý sống đúng đắn và tình cảm chân thành của tác giả. Để xã hội tiến bộ, mỗi người phải tự khẳng định mình, cố gắng làm việc có ích cho đời để tự hào với mọi người. Khát vọng, quyết tâm đó là chính đáng, là rất đáng trân trọng; nhất là khi được thể hiện một cách trực tiếp với một thái độ chân thành của nhà thơ.
Tiếp theo, Nguyễn Công Trứ tự nhận tài năng của mình:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Câu thơ này có thể được hiểu theo hai cách. Cách thứ nhất: Ông Hi Văn, một người tài giỏi, bị hạn chế bởi vòng cương tỏa của triều đình (như con chim yêu tự do, thích bay trên bầu trời cao rộng, nhưng giờ bị nhốt vào lồng), và do đó, ông không thể sống tự do như ý muốn. Cách hiểu thứ hai: Ông Hi Văn là người tài năng, có thể sánh ngang với trời đất; lồng ở đây có thể hiểu là trời đất, là vũ trụ. Cách hiểu này thuyết phục hơn, nhất quán hơn với bối cảnh của bài thơ, có văn cứ hơn. Nội dung hai câu đầu thường ảnh hưởng đến toàn bộ bài thơ, cảm hứng chủ đạo là ngạo nghễ, ngất ngưởng thay vì oán trách về sự mất tự do. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Tự nhận mình, tự xưng là cách diễn đạt phong cách của ông. Trước cụ Thượng Trứ, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng có lần tự xưng:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Rượu mời)
Tác giả của Truyện Kiều cũng từng tự xưng trong một câu thơ than phiền của Độc Tiểu Thanh kí:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Không biết ba trăm năm sau này
Thiên hạ ai người khóc Tố Như)
Tuy nhiên, chưa ai sau đó dám tự nhận mình như Nguyễn Công Trứ. Mặc dù, câu thơ tác giả nói về chính mình nhưng giống như nói về người khác, tự nhiên và chân thành.
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng,
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đoạn thơ trên thể hiện lòng tự hào về tài năng đa phong cách của tác giả. Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ là tài năng mà còn là thái độ chân thành, hồn nhiên và sự trung thực của Nguyễn Công Trứ. Tiểu sử của ông ghi lại rằng vào năm 1819, ông đỗ thủ khoa kỳ thi Hương; 7 năm sau, ông trở thành tham tán công vụ, và đến năm 1831, ông làm Tổng đốc tỉnh Đông (Hải An). 62 tuổi, ông tham gia chiến dịch chống quân đội xâm lược. Mặc dù là một nhà quan văn, ông đã tham gia các chiến dịch quân sự đa dạng.
Câu thơ đầu tiên vừa phân tích đã đóng vai trò quan trọng trong việc tác giả tự biểu lộ lối sống ngất ngưởng trong những câu thơ tiếp theo, thông qua việc mô tả bản thân và lối sống của mình:
Đô môn giải tổ chi niên.
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Trong xã hội xưa, việc sử dụng ngựa thường biểu thị quyền lực và thế lực. Nhưng Nguyễn Công Trứ không điều đó. Thay vào đó, ông điều khiển một chiếc xe bò lông vàng, đi lại khắp nơi. Thậm chí, trước cửa xe, ông treo bốn câu thơ trên một tấm mo cau:
Xuống ngựa, lên xe, nghĩ là thường
Lãnh chức với thăng quan
Đi trên chiếc xe bò cái
Một tấm mo che miệng thế gian
Trong con người Nguyễn Công Trứ, sự đối lập tạo ra một hình ảnh lôi cuốn: ông vừa ngất ngưởng vừa giữ vững bản tính, đeo đạc ngựa mà lại bò vàng, vừa làm từ bi mà lại tay kiếm cung, vừa đến chùa mà vẫn mang theo đôi dì. Những điều này khiến người hiền lành cũng phải thấy vui vẻ.
Vậy, tại sao Nguyễn Công Trứ có thể sống giữa thế gian phồn thịnh mà vẫn yên bình, thoải mái, không quan tâm đến danh lợi hay địa vị, đặc biệt là khi là một quan nhà triều đình trong một xã hội không công bằng? Có lẽ vì ông luôn coi thường sự may mắn hay thất bại, nhận thức rõ về giá trị bản thân và tài năng của mình.
Dù được khen ngợi hay chê trách,
Ông vẫn bình thản như gió xuân.
Lý do cốt lõi của thái độ sống này, của sự ngất ngưởng, là ý thức sâu sắc về bản thân, về tài năng và phẩm chất của mình.
Trong phần kết của bài thơ, Nguyễn Công Trứ một lần nữa tôn vinh tinh thần ngất ngưởng thông qua câu hỏi: 'Ai trong triều đại này có thể ngất ngưởng như ông?' Câu hỏi này thực chất là một khẳng định rằng không ai có thể sánh kịp với sự độc đáo và ngạo nghễ của thi sĩ Nguyễn Công Trứ.
Đặt trong thời kỳ phong kiến, Bài ca ngất ngưởng đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau. Nó là biểu hiện của sự tỉnh táo của cá nhân, khẳng định bản thân trong một môi trường không công nhận cá nhân. Đồng thời, nó ghi nhận một bước tiến quan trọng trong lịch sử dân tộc theo hướng dân chủ hóa.
Ngày nay, lối sống và cách sống ngất ngưỡng của Nguyễn Công Trứ có thể cần phải được tiếp thu một cách cẩn thận. Tuy nhiên, bài thơ Bài ca ngất ngưỡng vẫn giữ ý nghĩa quan trọng, khích lệ độc giả sống mạnh mẽ, sống có ý nghĩa để cuộc sống trở nên đáng sống, không chấp nhận sự tẻ nhạt, trống rỗng.
...........................................
Tải file tài liệu để tham khảo thêm bài văn mẫu hay nhất