Những mẫu văn lớp 11 này sẽ giúp các bạn học sinh hiểu rõ và viết bài văn hiệu quả, tránh mất đề và phát triển ý tưởng sáng tạo khi viết. Dưới đây là chi tiết nội dung, mời bạn tham khảo và tải tài liệu tại đây.
Dàn ý phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương
I. Khai mạc
- Vài điểm nổi bật về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Lục Vân Tiên: Một nhà văn tiêu biểu của vùng Nam Bộ với triết lý nghệ thuật: “Có bao nhiêu chiếc thuyền không chìm - Đâm mấy thằng giặc bút chẳng đưa”. Đoạn trích từ truyện Lục Vân Tiên đại diện cho văn học thơ Nôm
- Giới thiệu đoạn trích Lẽ ghét thương: Đoạn thơ từ câu 473 đến câu 504 mô tả cuộc trò chuyện giữa ông Quán và bốn chàng Nho sinh về lẽ ghét thương
II. Phần chính
1. Ông Quán và quan điểm lẽ ghét thương
- Ông Quán ra vẻ thông minh, thẳng thắn, yêu ghét rõ ràng trong đoạn trích, phản ánh tính cách Nam bộ và tư duy của tác giả
- Tóm tắt ý nghĩa “Yêu thương cũng là hình thức của ghét”: Dù ghét và yêu là hai điều đối lập, nhưng thực ra chúng thống nhất trong lòng
⇒ Điều này thể hiện quan điểm về tình yêu và ghét của ông Quán
- Danh sách những điều mà ông Quán ghét: sự thụt lùi, ghét sự hào nhoáng của Kiệt và Trụ, sự lạc lõng của đời U, sự hai lòng của Lệ, sự do dự của Ngũ Bá và sự phân chia của thúc quý…
⇒ Thực ra, ông ghét những vua chúa say rượu, tàn bạo, sống hoang dã mà không quan tâm đến dân chúng, dẫn đến suy tàn của triều đại
+ “Ghét đời”: Không chỉ ghét một cuộc đời, mà còn ghét cả một triều đại, một chính phủ, và một xã hội
+ Tính từ “ghét”: Làm cho cảm xúc trở nên mạnh mẽ hơn
+ Từ “dân”: Lẽ ghét chính là sự quan tâm đến nhân dân, lo lắng cho cuộc sống của họ
⇒ Tác giả đã lựa chọn đứng về phía nhân dân, với lý do rằng lẽ ghét bắt nguồn từ sự yêu thương và quan tâm đối với dân chúng. Điều này chứng tỏ rằng, nguồn gốc của lẽ ghét chính là lòng thương
2. Ông Quán bàn về lẽ thương
- Trong khi nói về lẽ ghét, ông Quán thường xuyên nói về việc ghét cả một “đời”, nhưng khi nói về lẽ thương, ông chú trọng vào việc yêu thương những người cụ thể:
+ Nhớ đến lòng thương của đức thánh nhân.
+ Thương nhớ thầy Nhan dạy dỗ đầy tâm huyết.
+ Ngợi khen tài năng và đức độ của ông Gia Cát.
+ Tiếc thương thầy Đổng tài năng vượt bậc.
+ Khuyên người Nguyên Lượng kiên nhẫn vượt qua khó khăn.
+ Tiếc thương ông Hàn Dũ gặp rủi ro.
+ Tiếc thương nhớ thầy Liêm, Lạc đã ra đi.
- Lời nhắn nhủ về tình cảm thương mến dành cho những người hy sinh vì dân tộc, vì đất nước, dù cuộc đời họ phải vất vả, bôn ba nhưng không đạt được thành công.
- Mối liên hệ chặt chẽ giữa hai tình cảm ghét và thương: “Một nửa lòng lại thương, một nửa lại ghét”: Sự yêu thương dành cho nhân dân và tiếc nuối cho những tài năng bị thất bại càng khiến căm ghét những kẻ gây hại cho dân tộc, cho đời sống.
⇒ Tình cảm chân thành, tự nhiên và chân thật ⇒ Biểu hiện tình cảm, lẽ yêu ghét của những người dân Nam Bộ nói chung
3. Đặc điểm đáng chú ý trong nghệ thuật.
- Sử dụng điệp từ một cách tương đối thường xuyên
- Sử dụng đối từ: ghét >< thương, thương ghét >< ghét thương, lại ghét >< lại thương.
- Phong phú trong cách kể:
- Đặc biệt tập trung vào việc sử dụng nhiều điển tích, ví dụ ⇒ giúp truyền đạt nhiều ý nghĩa hơn trong phạm vi hạn chế của từ ngữ thơ
III. Tóm tắt
- Tổng hợp những điểm chính về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Bài học cá nhân từ lẽ ghét thương trong đoạn trích
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương - Mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ vĩ đại, là ngôi sao sáng trong văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mến và chấp nhận vì chúng thể hiện tâm hồn, bản chất của họ. Tác phẩm đặc biệt nhất trong sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên với quan điểm, tư tưởng về con người, xã hội. Trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” qua nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét và lẽ thương một cách đáng khâm phục.
Đoạn trích Lẽ ghét thương được lấy từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc trò chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ hạng. Trong cuộc thi đua đó, Vân Tiên tỏ ra xuất sắc hơn, khiến Trịnh Hâm tức giận và đổ cho Vân Tiên chơi xấu. Trong bối cảnh đó, ông Quán đã phát biểu và thảo luận về lẽ ghét thương trong cuộc sống.
Ông Quán tự giới thiệu về bản thân:
Quán nói: Kinh sử đã xem xét
Nhưng vẫn gợi cho lòng đau đắng xa.
Hỏi thời thế phải nói ngay,
Vì ghét hay thương cũng là vì yêu thương
Ông Quán cũng là một người học giả, từng nghiên cứu kinh sử với ước mơ về danh vọng và giúp đỡ xã hội. Tuy nhiên, do biến cố trong cuộc sống và xã hội, ông đã rút về ẩn dật. Tuy nhiên, tâm hồn của một người học giả không bao giờ mất đi. Ông Quán là hình mẫu của những học giả tài năng nhưng rút về, sống một cuộc sống yên bình, tự tại, hòa mình với tự nhiên. Có thể xem ông Quán là người biểu hiện tư tưởng của tác giả.
Qua câu nói: “Vì ghét hay thương cũng là vì yêu thương” đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hai cảm xúc đối lập này: ghét – thương. Dù đối lập nhưng luôn tồn tại song song, người ta ghét những điều không tốt, giả dối nên mới thương những điều tốt đẹp. Vì vậy, chúng luôn cùng tồn tại và không thể tách rời.
Trước những lời ấy, Vân Tiên thể hiện sự khiêm nhường, mong muốn nghe lời dạy của tiền bối: “Tiên nói: Trong đục không có tường/ Không biết thương ghét, thương ghét như thế nào?”. Mặc dù hiểu rõ lẽ ghét thương, Vân Tiên khiêm nhường để được học hỏi từ ông Quán.
Tiếp theo, tác giả thể hiện những gì ông ghét: “Quán nói: ghét việc tỏ ra/ Ghét chua cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm/ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân chịu khổ trong sa hầm, hang… Đầu đêm tối, rối bời rối dân”. Ông Quán ghét chế độ thối nát, vua chúa tàn bạo, chiến tranh liên miên làm dân chịu khổ. Mỗi lần ông ghét đều đi kèm với hệ quả của các triều đại, ví dụ như ghét đời Kiệt Trụ vì mê dâm nên dân chịu khổ. Ông ghét những gì gây khổ cho dân, làm hại đến dân. Sự ghét này gắn liền với lòng thương dân, yêu dân.
Ông thương những gì? “Thương là thương đức thánh nhân/ Khi ở Tống, Vệ, Trần, Khuông/ …/ Thương thầy Liêm, Lạc khi bị đuổi về dạy dân”. Trong phần này, ông Quán thể hiện lòng thương mến với các nhân vật có đức, có tài trong lịch sử. Họ là những người có tấm lòng bao dung, cống hiến cả đời cho xã hội. Ông Quán rút ra chiêm nghiệm từ lẽ thương:
Nhìn lại lịch sử nhiều lần,
Nửa ghét, nửa lại thương.
Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, mộc mạc nhưng sâu sắc. Sử dụng ngôn từ đối lập: sa hầm đối với sẩy hang, sớm đầu đối với tối đánh,… tạo nên nhịp thơ linh hoạt, nhẹ nhàng. Nghệ thuật điệp ngữ: thương ông, thương ông lặp lại nhiều lần để diễn tả lẽ ghét thương của tác giả.
Trong Lẽ ghét thương, Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Quán thể hiện tâm hồn yêu thương dân, tỏ ra căm phẫn với những kẻ bạo chúa hôn quân hành hạ dân lành. Qua vần thơ, ta nhận thấy lòng nhân ái sâu sắc của tác giả - Nguyễn Đình Chiểu.
Phân tích Lẽ ghét thương - Mẫu 2, mô tả bối cảnh thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn và vai trò của các nhà văn, nhà thơ trong việc phản ánh hiện thực xã hội, đồng thời thể hiện quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu qua vần thơ.
Cuối thế kỷ XIX, chế độ phong kiến nhà Nguyễn đang trong giai đoạn hỗn loạn, là nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ như Nguyễn Đình Chiểu. Ông tái hiện hiện thực xã hội qua những vần thơ và truyện như Lục Vân Tiên để bày tỏ quan điểm của mình.
Trong đoạn trích, ông Quán là biểu tượng của các nhà Nho ẩn dật, bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc của mình với cuộc sống. Ông Quán và bốn chàng nho sinh thể hiện tâm tư qua cuộc thơ vui và tranh tài trong quán rượu, với ý nghĩa sâu xa về lẽ ghét thương.
Mặc dù là nhân vật phụ, nhưng đoạn trích này đặt ông Quán vào vị trí người phát ngôn cho quan điểm của tác giả, đặc biệt là qua bốn câu thơ đầu tiên về lẽ ghét thương của ông Quán.
'Quán cho biết, khi đọc lịch sử, lòng ông thường cảm thấy xót xa. Ông nhấn mạnh mối liên kết giữa ghét và thương. Ông ghét không phải vì lợi ích cá nhân mà vì những điều khiến lòng đau đớn, xót xa. Trong tư duy của ông, ghét cũng là một dạng thương, một biểu hiện của lòng thương yêu đồng loại và căm ghét bọn người ác, lạm dụng quyền lực để bắt nạt người khác. Ghét ở đây là do lòng thương quá nhiều, dẫn đến sự căm phẫn vô cùng.'
Một con người thông thái như Đồ Chiểu, dù đã trải qua nhiều biến cố nhưng vẫn giữ vững lòng nhân ái. Ông bày tỏ rõ mối quan hệ giữa ghét và thương, cho rằng ghét cũng là một dạng thương, xuất phát từ lòng yêu thương đối với những người bị áp bức, bị bạo hành. Đây là sự thể hiện của lòng thương mạnh mẽ, đậm đà trong quan niệm của ông Quán.
Những câu tiếp theo thể hiện rõ tình cảm của ông Quán đối với những điều khiến lòng căm phẫn và những điều ông yêu quý.
'Ông cho biết: 'Trong đục chưa tường, Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào. Quán rằng ghét việc tầm phào, Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm.''
Khi Vân Tiên hỏi ông về quan niệm về lẽ ghét thương, ông đã thể hiện quan điểm mạnh mẽ của mình. Ông cho rằng ghét là do lòng căm phẫn với những việc không ý nghĩa, vô lý. Lối diễn đạt tăng cường từ 'ghét' lặp lại nhiều lần trong câu thơ thể hiện rõ mức độ căm phẫn cực độ của ông Quán.
Ông miêu tả rõ những điều ông ghét là gì, ghét về ai và vì lý do gì.
'Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm... Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.'
Mỗi cặp câu thơ lục bát đề cập đến những sự kiện, nhân vật từ lịch sử Trung Quốc như Hạ, Thương để nói lên tâm trạng của ông về những vấn đề xã hội. Ông ghét vì ai? Ông ghét vì mọi sự việc đều ảnh hưởng tiêu cực đến dân. Nguyễn Đình Chiểu là người yêu nước, thương dân, ông ghét vì lòng thương yêu dân đầy sâu sắc. Ông căm ghét những kẻ làm tổn thương dân, làm trở ngại đến cuộc sống của họ. Thời kỳ ông sống, xã hội đối diện với nhiều khó khăn do chế độ tàn bạo, tham nhũng của quan lại, khiến dân nghèo khốn khổ. Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nhân đạo, luôn lên tiếng bảo vệ quyền lợi của dân. Thơ ông thể hiện chân thực như câu thơ:
'Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.'
Trong 14 câu thơ sau, ông Quán chỉ ra những người và lý do mà ông thương:
'Thương là thương đức thánh nhân... Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân'
Mỗi người, mỗi nhân vật được tác giả nhắc đến là những người hiền tài xưa, gặp số phận bất trắc không thể cống hiến hết tài năng. Đó là Khổng Tử lận đận trong truyền đạo, Nhan Uyển chết yểu, Gia Cát Lượng tài ba không gặp đúng thời thế, Đổng Trọng Thư bị phế truất tài năng, Đào Tiềm nhẫn nại chịu nhục chốn quan trường, Hàn Dũ dâng biểu khuyên vua bị đày đi xa, thầy Liêm, Lạc bị lời xua đuổi về nhà giáo dân. Cách diễn đạt và sử dụng điệp từ trong đoạn trích tạo ấn tượng sâu sắc.
Thương người cũng là thương mình, căm ghét cho nhân dân cũng là bộc lộ nỗi lòng của chính mình. Nguyễn Đình Chiểu học rộng tài cao, đau đớn với thời đại thối ruỗng, thể hiện tâm trạng thương ghét từ lợi ích và lòng nhân đạo.
Đoạn trích với nghệ thuật điệu ngữ và lối diễn đạt linh hoạt, giản dị nhưng sâu sắc, bộc lộ quan điểm thương ghét rõ ràng của tác giả.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” từ ông Quán thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà thơ mù, được đánh giá cao trong văn nghệ dân tộc.
Phân tích về 'Lẽ ghét thương' - Mẫu 3
Lời tâm huyết của Nguyễn Đình Chiểu về ghét và thương nhân bản.
Trong đoạn thơ 'Lẽ ghét thương' gồm 26 câu, có 10 câu về 'ghét' và 16 câu về 'thương'. Số lời về thương gấp đôi lời về 'ghét', thể hiện lòng thương dân. Tác giả đã nói rằng 'hay ghét cũng là hay thương'.
'Đàn dân đến nỗi sa hầm sẩy hang, làm dân luống chịu lầm than muôn phần, chuông bề dối trá làm dân nhọc nhằn, sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân' - những từ ngữ diễn đạt nỗi khổ của dân.
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật điệp từ để giãi bày sâu đậm nỗi lòng ghét trong đoạn thơ này, với 8 từ 'ghét' trong 10 câu thơ, đặc biệt là hai câu mở đầu có 4 từ 'ghét'.
'Cay đắng với lòng căm thù'
Sử dụng nghệ thuật điệp từ để diễn tả sâu sắc mức độ của căm ghét trong tâm trí Nguyễn Đình Chiểu. Lòng căm thù của ông Quán dành cho những kẻ hại dân, thể hiện tính nhân dân sâu sắc trong văn thơ.
Ngược lại với căm ghét, ông Quán bày tỏ tình thương đối với những nhân vật hiền nhân, quân tử trong văn thơ của mình, những người muốn cứu dân nhưng gặp bất hạnh. Mơ ước của họ không thành.
Tác giả biểu hiện lòng thương yêu trực tiếp đối với những người tài cao, chí cả, muốn cứu đời nhưng gặp rủi ro, bất hạnh, không thực hiện được ước mơ cứu dân.
Tác giả bày tỏ lòng thương yêu trực tiếp đối với những nhân vật muốn cứu đời, giúp dân nhưng gặp những trở ngại và bất hạnh, không thực hiện được ước mơ cứu dân.
Nguyễn Đình Chiểu vẫn sử dụng nghệ thuật điệp từ để thể hiện tình cảm thương yêu nhân bản trong đoạn thơ 16 câu này, với 9 từ 'thương' được sử dụng.
Bắt đầu đoạn thơ với hai từ 'thương':
'Thương là tình thương đối với đức thánh nhân'
Từ 'thương' diễn tả tình yêu tha thiết của nhân vật đối với Khổng Tử, người gặp nhiều khó khăn trên con đường hành đạo. Lòng thương của ông Quán rất lớn, thậm chí ông còn thương những người chưa đạt được danh vọng hoặc không gặp may mắn:
'Thương thầy Nhan Tử vất vả,
Ba mươi mốt tuổi chưa thành công danh',
Ông thương cả những người không gặp may mắn:
Thương ông Gia Cát tài ba,
Gặp nhiều rủi ro mà phải phôi pha'.
Từ đó, ông Quán tỏ lòng thương cảm trước số phận đầy cay đắng của con người trước những quy luật nghiệt ngã của tạo hoá và xã hội.
Đoạn thơ có sự sắp xếp nghệ thuật khá kỹ lưỡng, rõ ràng.
Có câu mở đầu nói về 'ghét':
'Quán nói: Ghét những việc vô nghĩa
Ghét cay, ghét đắng, ghét đến tận tâm
Có câu mở đầu nói về đoạn 'thương':
'Thương là lòng thương đối với đức thánh nhân Khổng Tử khi ở nơi Tống Vệ, trong thời Trần và Khuông'
Có câu kết cho cả hai đoạn 'ghét' và 'thương':
'Đọc lại lịch sử nhiều lần, Một nửa lại ghét, một nửa lại thương',
Đối với từng ý nhỏ trong mỗi phần ghét và thương, tác giả lại sử dụng các điệp từ ghét và thương để vừa phân biệt vừa liên kết các ý nhỏ lại với nhau. Ví dụ:
'Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời Ư, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lẩm than muôn phần
hoặc:
'Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt dã đành phôi pha.
Thương thầy Đổng Tử cao xa,
Chí dà có chí, ngôi mà không ngôi
Nhờ nghệ thuật sử dụng điệp từ kết hợp với cấu trúc bố cục chặt chẽ, mạch lạc, đoạn thơ mang lại cảm giác nghiêm trang và thống thiết, đặc trưng của thơ chữ tình của Nguyễn Đình Chiểu.